Đây là phẩm thứ 37, trong kinh Hoa Nghiêm đức Phật trở lại cội bồ đề nói phẩm Như Lai Xuất Hiện và mục đích chư Phật ra đời. Phẩm này chúng ta nghe thật kỹ sẽ thấy tương tự như kinh Pháp Hoa.
Bấy giờ đức Thế Tôn từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng đại quang minh tên là Như Lai Xuất Hiện, có vô lượng trăm ngàn ức a-tăng-kỳ quang minh na-do-tha làm quyến thuộc. Quang minh đó chiếu khắp mười phương tất cả thế giới tận hư không pháp giới, hữu nhiễu bảy vòng hiển hiện Như Lai vô lượng tự tại, giác ngộ vô số chúng Bồ-tát, chấn động tất cả thập phương thế giới, trừ diệt tất cả khổ ác đạo, chói che tất cả cung điện ma, hiển thị tất cả chư Phật Như Lai ngồi tòa bồ-đề, thành Đẳng chánh giác và cùng tất cả đạo tràng chúng hội.
Trước khi nói phẩm này đức Phật phóng hào quang trắng giữa chặng mày, hào quang tên Như Lai Xuất Hiện nói lên ý nghĩa của pháp Phật sắp diễn bày. Hào quang này có vô lượng ức na-do-tha làm quyến thuộc, biểu trưng khi Phật ra đời thì có muôn vạn ức ánh sáng cùng xuất hiện chiếu phá tối tăm của thế gian.
Hào quang của Phật chiếu khắp tất cả hư không giới, xoay bên hữu bảy vòng, tượng trưng sức tự tại của Phật giác ngộ vô số Bồ-tát. Hào quang này mang ý nghĩa đức Phật đã đầy đủ các trí giác và phương tiện để độ tất cả chúng sanh.
Quang minh đó đã hiển thị như vậy rồi trở lại hữu nhiễu chúng Bồ-tát, nhập vào đánh đầu của Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ-tát.
Hào quang đó sau khi hiển thị các điều của Bồ-tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức, nói lên ý nghĩa Bồ-tát này có duyên hỏi Phật về lý do Như Lai xuất hiện.
Lúc đó tất cả đại chúng trong đạo tràng này thân tâm hớn hở rất hoan hỷ mà nghĩ rằng: “Rất là ít có, nay đây đức Như Lai phóng đại quang minh tất sẽ để diễn nói thậm thâm đại pháp.”
Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ tát ở trong pháp tòa liên hoa trịch y bày vai hữu, quỳ gối hữu chắp tay nhất tâm hướng lên Phật mà nói kệ rằng:
Ý nghĩa phóng quang trong kinh Hoa Nghiêm rất có thứ tự. Ban đầu khi nói về Thập tín, Phật phóng quang ở dưới lòng bàn chân, nói đến Thập hạnh hay Thập trụ, phóng hào quang ở đầu gối, dần dần phóng hào quang trước ngực, rồi đến đây phóng hào quang ở giữa chặng mày. Phật phóng quang tuần tự như vậy để nói lên ý nghĩa của sự tu hành, tuy có thứ lớp nhưng không rời chỗ viên đốn. Khi phóng quang xong, chiếu tới đỉnh đầu của các vị Bồ-tát, biểu hiện sự giao cảm bất tư nghì giữa Phật và Bồ-tát. Bởi có sự giao cảm nên Bồ-tát thâm hiểu được ý của Phật, biết Phật sắp muốn nói điều gì, hỏi đúng ý Phật. Đây là sự giao cảm nhân quả không rời nhau.
Bồ-tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức từ nơi pháp tòa nhất tâm hướng về Phật thưa hỏi.
Chánh giác công đức đại trí hiện
Khắp đạt cảnh giới đến bỉ ngạn
Đồng với tam thế chư Như Lai
Vì thế nay tôi cung kính lễ.
Trước hết Bồ-tát tán thán đức Phật là bậc chánh giác, công đức đại trí hiện nơi thế gian. Ngài đã đạt được cảnh giới của Phật và đến được bờ bên kia. Ngài đồng với ba đời chư Phật, vì vậy chúng Bồ-tát kính lễ.
Đã lên bờ cảnh giới vô tướng
Mà hiện thân diệu tướng trang nghiêm
Phóng ra ngàn quang minh ly cấu
Phá dẹp quân ma đều hết sạch.
Khen ngợi Phật đã nhập pháp giới tánh hay đã vào pháp thân, nên nói Đã lên bờ cảnh giới vô tướng.
Cảnh giới vô tướng tức là cảnh giới của pháp thân. Từ pháp thân khởi ra báo thân đầy đủ muôn đức, nên nói hiện thân diệu tướng trang nghiêm, phóng ra ngàn quang minh ly cấu, tức là hào quang sáng vô lượng lìa tất cả cấu nhiễm. Phá dẹp quân ma đều hết sạch, hào quang sáng ấy phá dẹp hết quân ma.
Chúng ta học Phật nên để ý điểm này, phần nhiều những hội thuyết pháp lớn trong các kinh điển Đại thừa đều diễn tả Phật phóng quang trước, sau rồi nói pháp. Tại sao? Đạo Phật chủ trương giác ngộ, hào quang tượng trưng cho trí giác. Trí giác sáng suốt nên hiện tướng phóng quang trước rồi thuyết pháp sau. Hình ảnh Phật ngồi trên tòa sen là ý nghĩa ở trong cõi trần không nhiễm, phóng hào quang giác ngộ để dẹp hết mê mờ của chúng sanh.
Mười phương bao nhiêu những thế giới
Đều hay chấn động không có thừa
Chưa từng kinh sợ một chúng sanh
Thần lực đức Thiện Thệ như vậy.
Thần lực của Phật khi phóng quang thì mười phương thế giới đều chấn động. Ngài là một vị thuyết pháp vô úy không kinh sợ điều gì.
Hư không pháp giới tánh bình đẳng
Đã được như vậy mà an trụ
Tất cả quần sanh vô số lượng
Đều khiến dứt ác trừ những lỗi.
Hư không pháp giới tánh bình đẳng, pháp giới tánh bình đẳng như hư không, không có hình tướng lớn nhỏ, thấp cao. Pháp giới tánh bình đẳng như hư không, nhưng không phải là hư không. Đã được như vậy mà an trụ, tức là an trụ trong pháp giới tánh bình đẳng. Tất cả quần sanh vô số lượng, đều khiến dứt ác trừ những lỗi. Mặc dù trụ trong pháp giới tánh bình đẳng, mà có công dụng khiến cho tất cả chúng sanh dứt ác trừ lỗi.
Khổ hạnh siêng nhọc vô số kiếp
Thành tựu tối thượng đạo Bồ đề
Ở các cảnh giới trí vô ngại
Cùng tất cả Phật đồng thể tánh.
Phật đã siêng tu khổ hạnh không biết bao nhiêu đời kiếp nên thành tựu đạo Bồ-đề tối thượng này. Ngài ở trong cảnh giới trí vô ngại, tức là trí biết suốt khắp không còn ngăn ngại. Ngài cùng đồng một thể tánh với chư Phật.
Đạo sư phóng ra quang minh này
Chấn động mười phương các thế giới
Đã hiện vô lượng sức thần thông
Rồi lại trở vào nhập thân tôi.
Nhắc lại cảnh tượng trong hội này, Phật phóng quang khắp nơi rồi trở lại chiếu soi trên đỉnh Bồ-tát.
Trong pháp quyết định khéo học được
Vô lượng Bồ-tát đều đến nhóm
Khiến tôi phát khởi lòng vấn pháp
Thế nên nay tôi thỉnh Pháp vương.
Đây nói lý do muốn hỏi pháp, bởi Bồ-tát thấy Phật phóng quang chiếu trên đỉnh của mình và đại chúng đều nhóm họp đầy đủ, nên ngài đứng ra để thỉnh pháp.
Nay chúng hội này đều thanh tịnh
Khéo độ thoát được các thế gian
Trí tuệ vô biên không nhiễm trước
Những bậc Hiền này đều về nhóm.
Hội chúng trong đây rất thanh tịnh, trí tuệ vô biên không nhiễm trước, đều đã nhóm họp đầy đủ.
Lợi ích thế gian đấng Đạo sư
Trí tuệ tinh tấn đều vô lượng
Nay đem quang minh chiếu đại chúng
Khiến tôi thỉnh hỏi pháp Vô thượng.
Khen ngợi Phật phóng quang soi đại chúng, tạo cơ hội nhân duyên để ngài thỉnh pháp.
Ai ở cảnh giới của Như Lai
Mà hay chân thật khai diễn đủ?
Ai là Pháp Trưởng tử của Phật?
Thế Tôn đạo sư xin hiển thị.
Cầu thỉnh đức Phật dạy cho hội chúng biết, ai là người trụ được trong cảnh giới của Phật để khai diễn lẽ chân thật? Ai là đệ tử lớn nhất của Phật?
Đến đây chúng ta thấy rõ ý thâm sâu của kinh điển Đại thừa. Bồ-tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức hỏi đức Phật, người nào là pháp trưởng tử, người nào trụ trong cảnh Như Lai để nói đủ những cảnh của Phật. Nếu theo lẽ thường đức Phật trả lời, ở đây chỉ có Văn-thù đủ khả năng đó, nhưng trong đoạn kinh này ngài không nói mà chỉ phóng hào quang.
Bấy giờ đức Như Lai liền ở trong miệng phóng ra đại quang minh tên là Vô Ngại Vô Úy, có trăm ngàn ức a-tăng kỳ quang minh làm quyến thuộc, chiếu khắp mười phương tất cả thế giới tận hư không pháp giới, hữu nhiễu mười vòng, hiển hiện Như Lai các thứ tự tại, khai ngộ vô lượng những chúng Bồ-tát, chấn động tất cả mười phương thế giới, diệt trừ tất cả những khổ ác đạo, chói che tất cả những cung điện ma, hiển thị tất cả chư Phật Như Lai ngồi tòa Bồ-đề thành Đẳng chánh giác và đến tất cả chúng hội đạo tràng.
Trước tiên hào quang đó soi khắp hết mười phương, hiển thị tất cả những sự tự tại của Phật, khai ngộ chúng Bồ-tát, Kế làm chấn động cả mười phương thế giới, diệt trừ tất cả khổ ác đạo, che chói tất cả cung điện của ma, hiển bày cảnh Phật thành đạo dưới cội bồ-đề, rồi đi đến với chúng hội đạo tràng. Hào quang là trí giác của Phật, có tất cả công dụng đặc biệt như thế.
Đại quang minh này làm những sự như vậy rồi trở lại hữu nhiễu chúng hội Bồ-tát, nhập vào miệng của Phổ Hiền đại Bồ-tát. Đại quang minh nhập xong thời thân và tòa sư tử của Phổ Hiền Bồ-tát hơn lúc trước và hơn thân tòa của chư Bồ-tát gấp trăm lần, chỉ trừ tòa sư tử của Như Lai.
Khi hào quang nhập vào miệng ngài Phổ Hiền thì ngài Phổ Hiền hơn tất cả những vị Bồ-tát ở trong hội chúng. Ý chỉ rằng Phật không nói ai là trưởng tử mà dùng hào quang hiển thị cho chúng hội thấy. Hào quang phóng vào miệng Bồ-tát Phổ Hiền là ý nói Bồ-tát Phổ Hiền sẽ thay Phật nói pháp. Đó là việc của Phật đã xong. Vì vậy Bồ-tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức liền hỏi Bồ-tát Phổ Hiền.
Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ-tát hỏi Phổ Hiền đại Bồ-tát:
– Thưa Phật tử! Đức Thế Tôn đã thị hiện thần biến quảng đại làm cho chúng Bồ-tát đều sanh hoan hỷ chẳng thể nghĩ bàn, thế gian chẳng biết được. Đó là thoại tướng gì?
Phổ Hiền đại Bồ-tát nói:
– Phật tử! Thuở xưa, tôi thấy chư Như Lai Ứng Đẳng chánh giác thị hiện thần biến quảng đại như vậy, liền nói pháp môn Như Lai xuất hiện. Cứ theo tôi suy gẫm: Nay đức Như Lai hiện tướng này tất sẽ nói pháp môn đó.
Đáp câu hỏi của Bồ-tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức, Bồ-tát Phổ Hiền nói Phật hiện tướng này là sẽ nói pháp môn Như Lai xuất hiện, tức nói lên ý nghĩa chư Phật ra đời.
Lúc Phổ Hiền Bồ-tát nói lời trên xong, tất cả đại địa thảy đều chấn động, xuất sanh vô lượng quang minh vấn pháp.
Bồ-tát Phổ Hiền nói xong câu đó, cả đại địa đều chấn động và phát ra vô lượng hào quang hỏi pháp. Tại sao nói có một câu mà lại chấn động cả đại địa? Đây giới thiệu pháp môn Như Lai xuất hiện, mà Như Lai xuất hiện là làm cho cả thế gian đều chuyển mê thành ngộ nên đại địa chấn động. Những hình ảnh tượng trưng này nói lên ý nghĩa sâu xa trong văn học Phật giáo Đại thừa.
Ngài Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ-tát hỏi Phổ Hiền Bồ-tát:
– Thưa Phật tử! Đại Bồ-tát phải thế nào để biết pháp xuất hiện của chư Phật Như Lai? Xin Phật tử nói cho. Vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha chúng hội Bồ-tát này đều tu tịnh nghiệp đã lâu, niệm tuệ thành tựu, đã đến bờ rốt ráo đại trang nghiêm, đủ tất cả hạnh oai nghi của Phật, chánh niệm chư Phật chưa từng quên mất, lòng đại bi quán sát tất cả chúng sanh, quyết định biết rõ thần thông cảnh giới của chư đại Bồ-tát, đã được thần lực của chư Phật gia hộ, hay thọ tất cả diệu pháp của Như Lai, đủ vô lượng công đức như vậy đều đến nhóm họp tại đây.
Bồ-tát Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức kể ra những công hạnh của chư Bồ-tát nhóm họp đầy đủ.
1. Đều tu tịnh nghiệp đã lâu, tức là ba nghiệp thanh tịnh đã lâu.
2. Niệm tuệ thành tựu, tức là trí tuệ thành tựu.
3. Đã đến bờ rốt ráo đại trang nghiêm, tức là được đến chỗ đại trang nghiêm cứu cánh.
4. Đầy đủ hạnh oai nghi của Phật.
5. Chánh niệm chư Phật chưa từng quên mất, tức là lúc nào cũng niệm Phật nhớ Phật.
6. Đại bi quán sát tất cả chúng sanh.
7. Quyết định biết rõ thần thông cảnh giới của chư đại Bồ-tát, tức là hiểu rõ thần thông của các Bồ-tát không còn ngờ vực.
8. Được thần lực của chư Phật gia hộ.
9. Thọ diệu pháp của Như Lai.
Chín điểm then chốt đó, chư Bồ-tát ở đây đã đủ.
Chúng ta tuy chưa phải là Bồ-tát nhưng cũng bập bẹ học nói, học làm theo Bồ-tát thì trước hết phải làm sao? Phải tịnh tu ba nghiệp cho thanh tịnh, ráng tập cho có trí tuệ, ráng tu các công đức trang nghiêm, ráng tập theo hạnh của Như Lai, thường tưởng nhớ Phật, hằng thương nhớ chúng sanh… thọ học giáo pháp của Phật để được Phật gia hộ. Đây kể tư cách đầy đủ của Bồ-tát. Chúng ta muốn học theo hạnh của Bồ-tát, nếu chưa đủ ít ra cũng phải tập từ từ những điểm đó.
Phật tử đã từng ở chỗ vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha Phật, thừa sự cúng dường, thành tựu diệu hạnh tối thượng của Bồ-tát, nơi môn tam-muội đều được tự tại, vào chỗ bí mật của tất cả chư Phật, biết các Phật pháp, dứt những nghi lầm, được thần lực của Phật gia hộ, biết căn khí của chúng sanh tùy theo sở thích của họ mà nói pháp chân thật giải thoát, tùy thuận Phật trí, diễn nói Phật pháp đến nơi bỉ ngạn, có vô lượng công đức như vậy.
Đây là khen ngợi công đức của những vị Bồ-tát, có nhiều phương tiện khéo diễn hóa để làm lợi ích cho chúng sanh.
Lành thay Phật tử! Xin nói pháp xuất hiện của Như Lai Đẳng chánh giác, những thân tướng, ngôn âm, tâm ý, cảnh giới, hạnh đã làm, thành đạo, chuyển pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập đại Niết-bàn, thấy nghe thân cận được sanh thiện căn. Những sự như vậy xin Phật tử nói cho.
Bồ-tát xin hỏi về thân của Phật tướng hảo thế nào, âm thanh của Phật, tâm ý của Phật, cảnh giới của Phật, hạnh của Phật đã làm, Phật thành đạo, chuyển pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập đại Niết-bàn. Đời sống của Phật nếu chúng sanh được thấy nghe thân cận sẽ sanh thiện căn.
Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ-tát muốn tuyên rõ nghĩa này bèn hướng về Phổ Hiền Bồ-tát mà nói kệ rằng:
Lành thay vô ngại đại trí tuệ
Khéo tỏ vô biên cảnh bình đẳng
Nguyện nói công hạnh của chư Phật
Đại chúng được nghe đều mừng rỡ.
Đây là khen ngợi và khuyến thỉnh.
Bồ-tát thế nào tùy thuận nhập
Chư Phật Như Lai hiện ra đời
Cảnh giới thân, ngữ, ý thế nào
Và chỗ thật hành xin đều nói.
Nơi phước tạng kia sanh thâm tín
Có những lợi gì xin tuyên nói
Chúng Bồ-tát đây đều chắp tay
Chiêm ngưỡng Như Lai, ngài và tôi.
Cảnh giới biển công đức quảng đại
Thế nào chư Phật thành Chánh giác?
Thế nào Như Lai chuyển pháp luân?
Thế nào Thiện Thệ nhập Niết-bàn?
Đại chúng được nghe lòng hoan hỷ.
Xin Bồ-tát nói về cuộc đời của Như Lai từ sơ sanh đến nhập Niết-bàn,
Nếu có thấy Phật đại Pháp vương
Thân cận thêm lớn các thiện căn
Xin nói những tạng công đức kia
Chúng sanh thấy rồi được những gì?
Những câu hỏi này vì lợi ích chúng sanh, được nghe và thân cận chư Phật sẽ được lợi ích lớn.
Nếu ai được nghe tên Như Lai
Hoặc hiện tại thế hoặc Niết-bàn
Bậc tịnh chúng sanh xin vì nói
Xin dùng nhân duyên và thí dụ
Diễn nói diệu pháp nghĩa tương ưng
Chúng sanh nghe rồi phát đại tâm
Hết nghi trí sạch như hư không
Như khắp trong tất cả cõi nước
Chư Phật đã hiện thân trang nghiêm
Nguyện dùng diệu âm và nhân dụ
Dạy Phật Bồ-đề cũng như kia.
Hội chúng Bồ-tát đều hết lòng lắng nghe cảnh giới biển công đức rộng lớn của chư Phật. Tất cả chúng sanh được nghe rồi phát tâm, trí dứt sạch nghi ngờ. Vì thế yêu cầu kể hết công đức quảng đại của chư Phật, dùng những phương tiện thí dụ cho hội chúng nghe hiểu dễ dàng, để cho tâm hồn được trong sạch.
Mười phương ngàn muôn những cõi nước
Ức na-do-tha vô lượng kiếp
Như nay Bồ-tát chúng tập họp
Nơi kia tất cả đều khó thấy.
Chư Bồ-tát đây đều cung kính
Nơi nghĩa vi diệu sanh khát ngưỡng
Nguyện dùng tịnh tâm khai diễn đủ
Pháp quảng đại Như Lai xuất hiện.
Bồ-tát trong mười phương ngàn muôn cõi Phật, các bậc Bồ-tát như thế rất khó gặp mà lại cùng nhóm họp ở đây, chỉ vì cung kính khát ngưỡng nghĩa vi diệu. Xin ngài dùng tâm thanh tịnh khai diễn pháp rộng lớn Như Lai xuất hiện.
Phổ Hiền đại Bồ-tát bảo Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ-tát và đại chúng chư Bồ-tát:
Chư Phật tử! Chỗ này chẳng thể nghĩ bàn. Nghĩa là đức Như Lai Đẳng chánh giác, do vô lượng pháp mà được xuất hiện. Vì chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự, Như Lai xuất hiện được thành tựu, mà do mười vô lượng trăm ngàn vô số sự mới được thành tựu.
Mở đầu, Bồ-tát Phổ Hiền nói việc xuất hiện của Như Lai không thể nghĩ bàn, Bồ-tát nghĩ bàn còn không thể được, huống là phàm phu chúng ta. Tại sao không thể nghĩ bàn? Vì có quá nhiều nhân duyên chẳng phải một, Như Lai xuất hiện được thành tựu do mười vô lượng trăm ngàn vô số sự việc. Đây chỉ kể ra mười nhân duyên.
Những gì là mười?
Một là do quá khứ vô lượng Bồ-đề tâm nhiếp thọ tất cả chúng sanh làm thành.
Hai là do quá khứ vô lượng chí nguyện thanh tịnh thù thắng làm thành.
Ba là do quá khứ vô lượng đại từ đại bi cứu hộ tất cả chúng sanh làm thành.
Bốn là do quá khứ vô lượng hạnh nguyện tương tục làm thành.
Năm là do quá khứ vô lượng tu các phước trí tâm không nhàm đủ làm thành.
Sáu là do quá khứ vô lượng cúng dường chư Phật giáo hóa chúng sanh làm thành.
Bảy là do quá khứ vô lượng trí tuệ phương tiện thanh tịnh đạo làm thành.
Tám là do quá khứ vô lượng thanh tịnh công đức tạng làm thành.
Chín là do quá khứ vô lượng trang nghiêm đạo trí làm thành.
Mười là do quá khứ vô lượng thông đạt pháp nghĩa làm thành.
Vô lượng a-tăng-kỳ pháp môn viên mãn như vậy làm thành Như Lai.
Đây là mười nhân duyên của thuở quá khứ mà đức Như Lai xuất hiện. Nếu người tu mong ngày nào đó xuất hiện như Phật thì mười nhân quá khứ này không thể thiếu. Nếu thiếu thì không thể xuất hiện như Phật, không thể thành Phật. Mười nhân duyên này, tuy nói là của Phật song chính là dạy những người tu chúng ta.
Nhân duyên thứ nhất là do thuở quá khứ phát Bồ-đề tâm, như chúng ta đã học là do chánh tín rồi phát Bồ-đề tâm, để nhiếp thọ tất cả chúng sanh. Thử hỏi ai tu muốn thành Phật mà thiếu phát Bồ-đề tâm có thể thành được không? Đó là nguyên do không thể thiếu được.
Nhân duyên thứ hai là do vô lượng chí nguyện thanh tịnh thù thắng. Phát Bồ-đề tâm rồi mà không lập chí nguyện tiến mãi không dừng, đời đời kiếp kiếp không chán, thì có thể thành tựu không? Vì thế, kế việc phát Bồ-đề tâm là lập chí thệ nguyện tiến tới, không bao giờ lay chuyển. Đó là điều tối cần đối với người muốn thành Phật.
Nhân duyên thứ ba là tâm đại từ bi cứu hộ tất cả chúng sanh. Đã có chí nguyện tiến tu, kế đến phải khởi lòng từ bi độ chúng sanh.
Nhân duyên thứ tư là vô lượng hạnh nguyện tương tục. Khởi lòng từ bi mà không khởi công hạnh tiếp tục thực hiện, lòng từ bi ấy có thể đầy đủ được không? Vì thế sau khi khởi lòng từ bi liền khởi hạnh nguyện, tức là khởi công hạnh lợi tha, Phát Bồ-đề tâm, lập chí, khởi tâm từ bi, rồi khởi hạnh lợi tha là bốn điều do vô lượng quá khứ tu pháp cứu cánh, tâm không nhàm đủ.
Nhân duyên thứ năm là tu các phước trí, tức là vừa tu tuệ vừa tu phước, hai cái lúc nào cũng song hành.
Nhân duyên thứ sáu là cúng dường chư Phật, giáo hóa chúng sanh. Trên đối với chư Phật thì thành tâm kính cúng dường, dưới đối với chúng sanh lúc nào cũng sẵn sàng dạy dỗ. Đó là lòng chân thành của người cầu Phật đạo.
Nhân duyên thứ bảy là do trí tuệ phương tiện thanh tịnh đạo làm thành, tức là nhờ trí tuệ khéo tạo nhiều phương tiện nên tâm được thanh tịnh.
Nhân duyên thứ tám là do vô lượng thanh tịnh công đức tạng làm thành, tức là do công đức chứa nhóm thường thanh tịnh mà được.
Nhân duyên thứ chín là do vô lượng trang nghiêm đại trí làm thành. Chúng ta thường nghe nói Bồ-tát trang nghiêm tịnh độ, trang nghiêm bằng cách nào? Dùng trí giáo hóa chúng sanh, đó là trang nghiêm cõi Phật.
Nhân duyên thứ mười là do vô lượng thông đạt pháp nghĩa làm thành, tức là do hiểu thấu đạo lý của Phật nên thành tựu được quả vị Phật.
Đó là mười nhân duyên quá khứ mà người tu phát khởi hạnh nguyện mong thành Phật đều phải đầy đủ, nếu thiếu thì không thể thành tựu. Mười nhân duyên này chỉ là nói gọn của mười vô lượng trăm ngàn vô số sự mà Như Lai xuất hiện, nếu thiếu thì không thể thành tựu. Vô lượng a-tăng-kỳ pháp môn viên mãn như vậy làm thành Như Lai, Phật có vô lượng pháp môn không thể tính kể mới thành tựu sự xuất hiện nơi đời.
Chư Phật tử! Ví như Đại thiên thế giới này chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự mà được thành tựu, phải do vô lượng duyên, vô lượng sự mới được thành. Những là nổi giăng mây lớn, tuôn xối mưa lớn, bốn thứ phong luân nối tiếp làm sở y.
Thí dụ về sự thành lập thế giới, do nhiều nhân duyên, vô lượng sự mới thành. Đầu tiên do trong hư không nổi lên những đám mây to lớn, sau đó có những trận mưa to xối xuống, kế nổi bốn thứ gió tiếp tục, mới trụ thành thế giới.
Gì là bốn thứ?
Một tên là năng trì, vì hay trì đại thủy.
Hai tên là năng tiêu, vì hay tiêu đại thủy.
Ba tên là kiến lập, vì kiến lập tất cả xứ sở.
Bốn tên là trang nghiêm, vì trang nghiêm phân bố đều thiện xảo.
Công năng của phong luân, thứ nhất là gìn giữ nước; thứ hai là hay làm nước tiêu, tức là làm nước bốc hơi; thứ ba là kiến lập, tức là do nơi gió làm tụ lại những phần đất đai khiến nổi lên cồn đảo ở trong nước thành ra lục địa; thứ tư là công năng phân bố trang nghiêm thế giới là tùy theo duyên của chúng sanh mà chỗ thì tốt, chỗ thì xấu, chỗ màu mỡ, chỗ núi non… Như vậy thế giới hình thành do biết bao nhân duyên, nhưng nói gọn là do mây, mưa, gió. Nhờ gió mới giữ được nước, có phong luân rồi có lục địa. Chúng sanh nương thế giới mà sanh sống, tùy nghi sử dụng.
Như trên đây đều do cộng nghiệp của chúng sanh và thiện căn của chư Bồ-tát phát khởi, làm cho tất cả chúng sanh trong đó đều tùy sở nghi mà được thọ dụng.
Vô lượng nhân duyên như vậy mới thành Đại thiên thế giới. Pháp tánh như vậy không có sanh giả, không có tác giả, không có tri giả, không có thành giả, nhưng Đại thiên thế giới vẫn được thành tựu.
Đây chỉ ra các pháp thành tựu mà không có người sanh, không có người tạo, không có người biết, không có người làm thành nhưng thế giới vẫn được thành.
Theo quan niệm thông thường trước hết là do có ông chủ cất nhà, rồi sắp bày bàn ghế, tủ giường có trật tự, người ta liền nói nhà có chủ, tức là có tác giả. Từ trong gia đình ra ngoài vũ trụ, người ta thấy trong vũ trụ có núi sông, biển cả, đất bằng. Đất bằng để cất nhà làm vườn, sông đem nước tới để sinh hoạt, cày cấy, núi non để cây cối sanh trưởng. Thấy dường như có sự sắp đặt nên người quan niệm có tạo hóa làm tác giả, hay có sanh giả.
Người học Phật thì không quan niệm như vậy. Vì sao? Các pháp đều do duyên hợp lại thành, không có tác giả, sanh giả, thành giả. Tuy không có người tạo, người làm, người sanh, nhưng thế giới vẫn thành tựu. Xem xét kỹ vấn đề, chúng ta thấy quan niệm có đấng tạo hóa là chỉ do tưởng tượng, không đúng lý thật. Nếu trong thế giới có một đấng tạo hóa, vậy khi tạo ra thế giới tạo hóa ở đâu? Vì lúc đó chưa có thế giới? Hình dáng tạo hóa ra sao, giống con người không? Nếu có hình tướng như chúng ta thì ai sanh ra tạo hóa? Cứ vậy mà đi trong vòng lẩn quẩn.
Cũng vậy, Như Lai xuất hiện chẳng phải do một duyên, chẳng phải do một sự mà được thành tựu, phải do vô lượng duyên vô lượng sự mới thành tựu được. Những là từng ở chỗ Phật quá khứ lắng nghe thọ trì đại pháp vân, đại pháp vũ. Do thể khởi Như Lai bốn thứ đại trí phong luân.
Đây nói về thế giới thành tựu để thí dụ cho đức Phật ra đời. Thế giới xuất hiện có nhiều nhân duyên, đủ thì đức Phật ra đời cũng có nhiều nhân duyên. Nhân duyên quan trọng nhất là do quá khứ ngài đã từng ở chỗ chư Phật nghe pháp, nhờ nghe pháp mới khởi ra bốn thứ đại trí của Như Lai.
Một là đại trí phong luân đà-la-ni niệm trì chẳng quên, vì hay trì tất cả đại pháp vân đại pháp vũ của Như Lai.
Trí thứ nhất là Đà-la-ni niệm trì chẳng quên. Đà-la-ni là Tổng trì, nghĩa là hay nghĩ nhớ lời chư Phật quá khứ chỉ dạy không quên.
Hai là đại trí phong luân xuất sanh chỉ quán, vì hay tiêu diệt tất cả phiền não.
Trí thứ hai là xuất sanh chỉ quán, Chỉ quán là phương pháp thiền định, do dùng phương pháp thiền định này mà dứt trừ tất cả phiền não.
Ba là đại trí phong luân hồi hướng thiện xảo, vì hay thành tựu tất cả thiện căn.
Trí thứ ba là hồi hướng thiện xảo, nghĩa là khéo léo hồi hướng để đầy đủ những căn lành.
Bốn là đại trí phong luân xuất sanh ly cấu sai biệt trang nghiêm, vì khiến quá khứ những chúng sanh được hóa độ, thiện căn của họ thanh tịnh, thành tựu sức thiện căn vô lậu của Như Lai.
Trí thứ tư là xuất sanh ly cấu sai biệt trang nghiêm. Ly cấu là lìa tất cả các thứ nhơ nhớp. Phật dùng đại trí chỉ dạy tất cả chúng sanh tùy theo căn cơ, kẻ cao dạy cao, người thấp dạy thấp, kẻ sân dạy phương pháp trị sân, người si dạy phương pháp trị si… để họ lìa các cấu nhiễm. Vì dạy chúng sanh căn cơ không đồng nên gọi là sai biệt trang nghiêm. Tùy theo căn tánh của mỗi chúng sanh, dạy dỗ cho họ được thanh tịnh, do đó thành tựu sức thiện căn vô lậu của Như Lai.
Bốn trí này là gốc để đức Phật ra đời.
Đức Như Lai thành Đẳng chánh giác như vậy, pháp tánh như vậy, vô sanh vô tác mà được thành tựu.
Khi đức Phật thành Đẳng chánh giác là ngài thể nhập pháp tánh. Pháp tánh ấy không sanh diệt nên gọi là vô sanh, không phải là pháp tạo tác nên gọi là vô tác, mà vẫn thành tựu nhân duyên để Như Lai xuất hiện. Thế giới không có sanh giả, không có tác giả mà vẫn thành tựu, đây nói Phật thể nhập pháp tánh không sanh, không tác cũng được thành tựu.
Đây là tướng xuất hiện thứ nhất của đức Như Lai Đẳng chánh giác, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Từ trước đến đây, chúng ta mới học tướng xuất hiện thứ nhất của đức Phật.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Đại thiên thế giới lúc sắp thành mây lớn tuôn mưa gọi là hồng chú. Tất cả phương xứ chẳng thể thọ, chẳng thể trì, chỉ trừ Đại thiên thế giới lúc sắp thành. Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, gọi là thành tựu Như Lai xuất hiện, tất cả hàng Nhị thừa tâm chí hẹp kém không thọ được, không trì được, chỉ trừ sức tâm tương tục của chư đại Bồ-tát.
Đây là tướng xuất hiện thứ hai của đức Như Lai Đẳng chánh giác, đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng xuất hiện thứ hai khi đức Phật ra đời, ngài nói pháp Đại thừa cao tột, hàng Thanh văn Duyên giác không thể nào thu nhận nổi, chỉ trừ chư đại Bồ-tát. Chẳng khác nào một trận mưa to khi thế giới sắp thành, lúc đó không chỗ nào chịu nổi, chỉ có Đại thiên thế giới chứa nổi. Thế giới Đại thiên thí dụ cho chư đại Bồ-tát có sức tâm tương tục mới nghe thọ được mưa pháp của Như Lai, còn hàng Thanh văn Duyên giác nghe không được.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như chúng sanh vì do nghiệp lực, mây lớn tuôn mưa, đến không từ đâu, đi không về đâu.
Thí dụ thứ ba như mây lớn tuôn mưa, song mưa đó không từ đâu đến, đi cũng không về đâu. Đó là do nghiệp lực của chúng sanh mà hiện, không nói từ nơi chốn nào. Thật ra đó chỉ là duyên hợp như huyễn, đến không có chỗ nơi, đi không có chỗ về.
Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác, do sức thiện căn của chư Bồ-tát, nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, cũng đến không từ đâu, đi chẳng đến đâu. d. Đây là tướng xuất hiện thứ ba của đức Như Lai Đẳng chánh giác, đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng xuất hiện thứ ba của chư Phật, do sức thiện căn của chư Bồ-tát nên tuôn mưa pháp cho chư đại Bồ-tát. Những lời nói pháp ấy xuất phát từ đức Phật là có chỗ đi, lọt vào tai chư Bồ-tát là có chỗ đến. Tại sao đức Phật nói pháp lớn như vậy mà đến không từ đâu, đi chẳng về đâu? Vì Như Lai xuất hiện là pháp thân vô ngã không có năng sở, vì không năng sở nên không có chỗ đến, không có chỗ đi.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mây lớn tuôn xối mưa lớn. Trong Đại thiên thế giới tất cả chúng sanh không biết được số. Nếu muốn tính đếm, chỉ luống phát cuồng. Duy có Ma-hê-thủ-la, chủ của Đại thiên thế giới, do sức thiện căn đã tu từ quá khứ, nhẫn đến một giọt đều biết rõ cả.
Tướng xuất hiện thứ tư thí như cơn mưa to, chúng sanh không ai có thể đếm hết bao nhiêu giọt mưa, muốn tính đếm hết càng thêm cuồng loạn. Chỉ có Ma-hê-thủ-la chủ của Đại thiên thế giới, do có thiện căn nhiều đời nên có thể đếm biết không sót một giọt.
Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ, tất cả chúng sanh, Thanh văn, Duyên giác đều không biết được. Nếu muốn nghĩ lường tâmắt cuồng loạn. Chỉ trừ đại Bồ-tát, chủ của tất cả thế gian, do sức giác tuệ đã tu từ quá khứ, nhẫn đến một văn một câu nhập vào tâm chúng sanh đều biết rõ cả.
Đây là tướng xuất hiện thứ tư của đức Như Lai Đẳng chánh giác. Đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Trước dùng dụ mưa lớn, chúng sanh không tính đếm được số giọt nước mưa, chỉ có Ma-hê-thủ-la mới biết được. Cũng vậy, khi Phật xuất hiện nói đại pháp quá cao siêu nên hàng phàm phu, Nhị thừa, Duyên giác muốn biết mà không được, chỉ luống nhọc sanh cuồng. Chỉ có hàng Bồ-tát do sức giác ngộ ở đời quá khứ nên mới thâm nhập được từng câu từng chữ.
Đoạn này có hai ý: Ý thứ nhất nói theo thiền sư, sở dĩ các hàng Thanh văn, Duyên giác không thể nghe được là vì khởi tâm phân biệt, khởi tâm phân biệt nên chỉ phát cuồng loạn mà không thể hiểu được. Ý thứ hai nói theo kinh giáo thì hàng Thanh văn, Duyên giác trí hẹp thấy cạn nên không hiểu được lý sâu xa. Hàng Bồ-tát đã gieo chủng tử căn lành quá khứ từ nhiều đời nên các ngài mới kham lãnh thọ.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như lúc mây lớn tuôn mưa, có mây lớn mưa lớn tên là Năng diệt, diệt được hỏa tai. Có mây lớn mưa lớn tên là Năng khởi, hay khởi đại thủy. Có mây lớn mưa lớn tên là Năng chỉ, hay ngăn đại thủy. Có mây lớn mưa lớn tên là Năng thành, hay thành tất cả các báu ma-ni. Có mây lớn mưa lớn tên Phân biệt, hay phân biệt Tam thiên đại thiên thế giới.
Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện nổi đại pháp vân, tuôn đại pháp vũ. Có đại pháp vũ tên là Năng diệt, hay diệt tất cả phiền não chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là Năng khởi, hay khởi tất cả thiện căn của chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là Năng chỉ, hay ngăn kiến hoặc của tất cả chúng sanh. Có đại pháp vũ tên là Năng thành, hay thành tất cả trí tuệ pháp bảo. Có đại pháp vũ tên là Phân biệt, phân biệt tất cả tâm sở thích của chúng sanh.
Đây là tướng xuất hiện thứ năm của đức Như Lai Đẳng chánh giác, đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng xuất hiện thứ năm của đức Phật, lại dùng bốn thí dụ. Như mây lớn tên Năng diệt, Năng khởi, Năng chỉ, Năng thành. Khi Như Lai xuất hiện ngài nói pháp có công năng diệt các phiền não cho chúng sanh. Pháp của Phật có công năng khởi tất cả căn lành cho chúng sanh, có công năng dừng tất cả kiến hoặc của chúng sanh, có công năng thành tất cả trí tuệ pháp bảo cho chúng sanh, có công năng phân biệt tất cả tâm sở thích của chúng sanh.
Khi thế giới lập thành, mây lớn tuôn mưa có công năng lợi ích cho thế gian, Khi chư Phật xuất hiện nơi đời, nổi lên mây mưa đại pháp có năm công năng lợi ích cho chúng sanh. Đó là điều đặc biệt quý trọng.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mây lớn tuôn nước đồng một vị mà tùy những chỗ mưa có vô lượng sai biệt. Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện tuôn đại bi pháp thủy đồng một vị mà tùy sở nghi thuyết pháp có vô lượng sai biệt.
Đây là tướng xuất hiện thứ sáu của đức Như Lai Đẳng chánh giác, đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng xuất hiện thứ sáu của Như Lai, như mây lớn tuôn mưa chỉ có một vị, Phật xuất hiện thuyết pháp chỉ một vị, nhưng vì căn lượng sai biệt của chúng sanh nên có vô lượng pháp sai biệt. Đó là do chúng sanh, không phải do tâm bất bình đẳng của Phật.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Đại thiên thế giới, lúc mới bắt đầu thành, trước hết thành cung điện của trời cõi Sắc, kế đến thành cung điện của trời cõi Dục, kế đến thành chỗ ở của loài người và những loài khác.
Cũng vậy, đức Như Lai xuất hiện, trước hết khởi những hạnh trí tuệ Bồ-tát, kế khởi những hạnh trí tuệ Duyên giác, kế khởi những hạnh trí tuệ thiện căn Thanh văn, kế khởi những hạnh trí tuệ thiện căn hữu vi của các chúng sanh khác.
Như mây lớn tuôn nước một vị, vì theo thiện căn của chúng sanh sai khác nên khởi các loại cung điện chẳng đồng. Đại bi pháp vũ nhất vị của Như Lai tùy căn khí của chúng sanh mà có sai khác.
Đây là tướng xuất hiện thứ bảy của đức Như Lai Đẳng chánh giác, đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng xuất hiện thứ bảy của Như Lai, dùng thí dụ chỗ thành lập thế giới bắt đầu từ cung điện trời Sắc giới… cho đến chỗ ở các loài.
Thế giới chúng ta ở tùy theo phước duyên đã tạo. Cõi trời thì cung điện sẵn dành, hưởng đủ thứ vui ngũ dục. Cõi người thì phải tự tạo dựng mới có nhà ở, cơm ăn, áo mặc. Đó là do nghiệp lực của chúng sanh mà có sai biệt.
Hợp pháp về Như Lai xuất hiện, trước hết ngài làm khởi lên hạnh trí tuệ của Bồ-tát, kế đến khởi hạnh của Duyên giác, kế đến khởi hạnh của Thanh văn, rồi đến khởi những hạnh trí tuệ hữu vi của chúng sanh. Tất cả đồng nghe một pháp Phật nói, nhưng kết quả sai biệt vì căn cơ sai biệt, không phải đức Phật thuyết pháp không đồng. Trong một hội nghe pháp mà có người thành tựu quả Bồ-tát, có người thành Thanh văn, Bích-chi…
Tôi lấy thí dụ nơi chính mình. Những gì tôi biết thì tôi nói ra cho mọi người cùng hiểu. Nhưng nếu có người chưa từng biết tu đến hỏi đạo, làm sao tôi chỉ dạy về Tối thượng thừa thiền hay nói các pháp đều như huyễn? Đối với người mới học thì phải nói các pháp nhân quả, làm nhân lành hưởng quả lành, làm nhân ác bị quả ác. Như vậy mới dễ hiểu dễ nhận, nếu dạy tu thì bắt đầu dạy thọ tam quy ngũ giới… Chúng ta tùy trình độ sai biệt mà nói pháp có thấp cao. Đức Phật cũng vậy, vì trình độ sai biệt của chúng sanh, tùy nghi nói pháp làm khởi lên tất cả hạnh sai khác.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như lúc thế giới ban đầu sắp thành, có đại thủy khởi đầy khắp Đại thiên thế giới, sanh hoa sen lớn tên là Như Lai xuất hiện công đức bảo trang nghiêm, che khắp trên mặt nước, ánh sáng chiếu tất cả thế giới mười phương. Lúc đó Ma-hê-thủ-la và Tịnh Cư thiên thấy hoa sen đó, liền quyết định biết trong kiếp này có bao nhiêu đức Phật như vậy xuất thế.
Bấy giờ trong đó có phong luân nổi lên tên là Thiên tịnh quang minh hay làm thành cung điện chư thiên cõi Sắc. Lại có phong luân tên là Tịnh quang trang nghiêm hay thành cung điện chư thiên cõi Dục. Lại có phong luân tên là Kiên mật vô năng hoại hay thành những đại và tiểu Luân Vi Sơn cùng Kim Cang Sơn. Lại có phong luân tên là Thắng cao hay thành núi Tu-di. Lại có phong luân tên là Bất động hay thành mười núi lớn là núi Khư-đà-la, núi Tiên Nhân, núi Phục Ma, núi Đại Phục Ma, núi Trì Song, núi Di-dân-đà-la, núi Mục-chân-lân-đà, núi Ma-ha Mục-chân-lân-đà, Hương Sơn và Tuyết Sơn. Có phong luân tên là An trụ hay thành đại địa. Có phong luân khởi tên là Trang nghiêm hay thành cung điện của Địa thiên, Long cung, Càn thát-bà cung. Có phong luân khởi tên là Vô tận tạng hay thành tất cả đại hải trong Đại thiên thế giới. Có phong luân khởi tên là Phổ quang minh tạng hay thành những ma-ni bảo trong Đại thiên thế giới. Có phong luân khởi tên là Kiên cố căn hay thành tất cả Như Ý thọ.
Mây lớn tuôn mưa một thứ nước đồng một vị không có sai khác. Do chúng sanh thiện căn chẳng đồng nên phong luân chẳng đồng. Phong luân sai khác nên thế giới sai khác.
Cũng vậy, Như Lai xuất hiện đầy đủ thiện căn công đức, phóng quang minh đại trí vô thượng tên là Trí bất tư nghì chẳng dứt Như Lai chủng, chiếu khắp tất cả thế giới mười phương, thọ Như Lai quán đảnh ký cho chư Bồ-tát sẽ thành Chánh giác xuất hiện ra đời.
Đây dùng thí dụ về thế giới của chúng ta tuần tự mà thành từ trên xuống dưới. Sự thành tựu đó gốc từ trời mưa, mưa rồi nổi gió, tùy theo mỗi vùng, gió tụ đất thành núi, có những vùng gió biến động tùy theo nghiệp của chúng sanh. Gió là nghiệp, là động. Trong thân người, gió là hơi thở, tâm ý theo hơi thở mà tiếp nối liên tục phát khởi ra hoạt động, những hoạt động đó là gốc tạo nghiệp. Vì thế nói gió làm thành tựu cho đất, nước, lửa… tùy theo nghiệp cao thấp của chúng sanh. Như kinh nói, mưa thì chỉ có một vị mà do căn tánh của chúng sanh cao thấp, nên gió khởi lên những cảnh sai biệt.
Đức Phật cũng thế, ngài phóng hào quang đại trí vô thượng tên là Trí bất tư nghì chẳng dứt hạt giống Như Lai, chiếu khắp mười phương thế giới, các Bồ-tát đều được được quán đảnh và đều được thọ ký thành Phật. Như Lai xuất hiện nơi đời để cứu độ chúng sanh, chỉ có một việc ấy thôi, nhưng vì căn tánh chúng sanh không đều, nên xuất hiện quang minh đại trí có nhiều tên khác nhau.
Chư Phật tử! Như Lai xuất hiện lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Thanh tịnh lỵ cấu hay thành Phật trí vô lậu vô tận.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Phổ chiếu hay thành Trí bất tư nghì Như Lai khắp vào pháp giới.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Trì Phật chủng tánh hay thành Sức chẳng khuynh động của Như Lai.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Quýnh xuất vô năng hoại hay thành Trí vô úy vô hoại của Như Lai.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Nhất thiết thần thông hay thành Những pháp bất cộng nhất thiết chủng trí của Như Lai.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Xuất sanh biến hóa hay thành Trí chẳng hư mất của Như Lai khiến người thấy nghe thân cận sanh thiện căn.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Phổ tùy thuận hay thành Thân trí tuệ phước đức của Như Lai, vì tất cả chúng sanh mà làm lợi ích.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Bất khả cứu cánh hay thành Diệu trí thậm thâm của Như Lai, tùy chỗ khai ngộ làm cho Tam bảo chủng vĩnh viễn chẳng đoạn tuyệt.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Chủng chủng trang nghiêm hay thành Thân tướng hảo trang nghiêm của Như Lai, khiến tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.
Lại có quang minh đại trí vô thượng tên là Bất khả hoại hay thành Thọ mạng thù thắng vô tận đồng với hư không giới pháp giới của Như Lai.
Đây là tướng Như Lai xuất hiện thứ tám, có nhiều quang minh. Hào quang trí vô thượng tên Thanh tịnh ly cấu, hay thành tựu Phật trí vô lậu. Hào quang đại trí vô thượng tên Phổ chiếu hay thành tựu Trí bất tư nghì Như Lai khắp vào pháp giới. Lại có hào quang đại trí vô thượng tên là Trì Phật chủng tánh, hào quang đại trí vô thượng tên là Quýnh xuất vô năng hoại… Mỗi mỗi hào quang trí lớn vô thượng có nhiều công năng thành tựu tất cả pháp của Như Lai, khiến lợi ích cho chúng sanh, khiến người nghe thân cận sanh thiện căn, khiến thành thọ mạng vô tận… Bao nhiêu hào quang sai biệt đều xuất hiện cùng một thể tánh chân thật.
Chư Phật tử, nước một vị đại bi của Như Lai không có phân biệt, vì các chúng sanh sở thích chẳng đồng căn tánh đều khác nên khởi nhiều thứ phong luân sai khác, khiến các Bồ-tát thành tựu pháp Như Lai xuất hiện.
Tất cả Như Lai đồng một thể tánh, trong đại trí phong luân xuất sanh các thứ trí tuệ quang minh.
Chư Phật tử phải biết, đức Như Lai ở nơi một vị giải thoát, xuất sanh vô lượng bất tư nghì các thứ công đức. Chúng sanh nghĩ rằng đây là thần lực của Như Lai tạo ra.
Như Lai chỉ ở nơi một vị giải thoát mà hiện ra các công đức khác nhau, chúng sanh tưởng rằng thần lực của Như Lai có nhiều sai khác.
Chư Phật tử! Đây chẳng phải thần lực của Như Lai tạo ra.
Chư Phật tử! Chẳng bao giờ có nhẫn đến một Bồ-tát chẳng ở nơi chỗ Phật từng gieo căn lành mà có thể được ít phần trí tuệ của Như Lai.
Có các Bồ-tát đến pháp hội nghe Phật nói pháp, liền được thần thông quảng đại, chúng ta nghĩ rằng các Bồ-tát đó là do thần lực của Phật tạo ra. Phật bảo chẳng phải, sở dĩ các Bồ-tát được thần thông tự tại như trên là do gốc đã gieo căn lành ở chỗ chư Phật nhiều đời, nếu không từng gieo căn lành thì không thể được ít phần trí tuệ. Như vậy chứng tỏ chỉ người có công tu tập mới được, không có thứ gì từ người khác mà được. Đến khi người ta hiểu lầm, không chịu lo tu rồi đinh ninh đến nơi đó nơi kia… khiến mình được thần thông, trí tuệ.
Phật phóng quang chiếu khắp mười phương, thọ ký cho các Bồ-tát được thành Phật, Các Bồ-tát được điều đặc biệt này chính là nhờ công đức tu tập của các ngài đã chín muồi, đã đầy đủ nên được hào quang của Phật chạm đến thọ ký cho. Đây nói chẳng bao giờ có nhẫn đến một Bồ-tát, chẳng ở nơi chỗ Phật từng gieo căn lành mà có thể được ít phần trí tuệ của Như Lai, tất cả đều như vậy.
Chỉ do sức oai đức của chư Phật khiến các chúng sanh đủ công đức của Phật. Mà đức Phật Như Lai không phân biệt, không thành không hoại, không có tác giả, cũng không có pháp làm.
Đây là tướng xuất hiện thứ tám của đức Như Lai Đẳng chánh giác, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tại sao nói oai đức của chư Phật khiến các chúng sanh được đủ công đức của Phật? Phải hiểu đúng nghĩa nếu không sẽ bị lầm. Oai đức của Phật tức là do Phật dùng oai đức cảm hóa chúng sanh, khiến họ bỏ tà về chánh, làm lành tránh dữ, từ đó được đầy đủ công đức lành của Phật, không phải do Phật cho chúng sanh công đức.
Đức Phật Như Lai không phân biệt, không thành không hoại, không có tác giả, cũng không có pháp làm.
Đây có hai lối giải thích: Thứ nhất, nhìn theo Phật bên ngoài. Đức Phật đã thành Phật đầy đủ oai đức giáo hóa chúng sanh dễ dàng, nên chúng sanh thấy ngài liền mến. Đã cảm mến thì ngài dạy họ tu bỏ ác làm lành, chuyển xấu thành tốt không khó, do đó họ được bao nhiêu công đức. Dù Phật dạy chúng sanh nhưng tâm ngài vẫn thanh tịnh, không chấp trước, không phân biệt, vì thế nói không phân biệt, không thành không hoại, tức là giáo hóa mà không mong thành công, đã không mong thành công nên không thấy có thành hoại.
Thứ hai, nhìn theo Phật bên trong. Nơi mỗi chúng sanh đều có Phật tánh, từ Phật tánh đó khởi ra diệu dụng, nên nói từ oai đức chư Phật khiến các chúng sanh đầy đủ căn lành, bao nhiêu niệm thiện dấy lên đều gốc từ Căn bản trí hay là Phật tánh. Phật tánh bất sanh bất diệt, không thành không hoại, không có tác giả, không thấy có pháp tạo tác. Tóm lại, oai đức của Phật là chỉ cho oai đức của Phật tánh khiến chúng ta được những căn lành. Phật tánh vô phân biệt, không thành không hoại, không có tác giả, không có tác pháp.
Lại nữa, chư Phật tử! Như y hư không khởi bốn phong luân hay giữ lấy thủy luân: một tên là an trụ, hai tên là thường trụ, ba tên là cứu cánh, bốn tên là kiên cố.
Bốn phong luân này hay giữ lấy thủy luân. Thủy luân hay giữ lấy đại địa cho khỏi tan hư.
Vì thế nên nói địa luân y nơi thủy luân, thủy luân y nơi phong luân, phong luân y nơi hư không, hư không không chỗ y. Dầu không chỗ y mà hư không có thể làm cho Đại thiên thế giới được an trụ.
Cũng vậy, Như Lai xuất hiện y nơi quang minh vô ngại tuệ phát khởi bốn thứ đại trí phong luân của Phật hay giữ lấy thiện căn của tất cả chúng sanh.
Một là đại trí phong luân nhiếp khắp chúng sanh đều làm cho hoan hỷ.
Hai là đại trí phong luân kiến lập chánh pháp khiến các chúng sanh đều sanh ưa thích.
Ba là đại trí phong luân giữ gìn thiện căn của tất cả chúng sanh.
Bốn là đại trí phong luân đủ tất cả phương tiện thông đạt vô lậu giới.
Chư Phật Thế Tôn đại từ cứu hộ tất cả chúng sanh, đại bi độ thoát tất cả chúng sanh, đại từ đại bi lợi ích khắp cả. Nhưng đại từ đại bi y đại phương tiện thiện xảo. Phương tiện thiện xảo y Như Lai xuất hiện. Như Lai xuất hiện y vô ngại tuệ quang minh. Vô ngại tuệ quang minh không chỗ y.
Đây là tướng xuất hiện thứ chín của đức Như Lai Đẳng chánh giác, đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Đây là tướng xuất hiện thứ chín, dùng thí dụ nói về chỗ vô y, không có chỗ y cứ mà công năng vô cùng vô tận. Như quả địa cầu này, địa luân là phần đất, đất y cứ vào nước, nước y cứ vào gió, gió y cứ vào hư không. Hư không y cứ vào đâu? Hư không không có chỗ y cứ nhưng giữ được quả địa cầu. Tất cả hành tinh đều nằm trong hư không, mà hư không không nương vào đâu.
Dùng thí dụ hợp pháp trước tiên, nói lòng đại từ đại bi của Thế Tôn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, lòng đại từ đại bi ấy y cứ vào phương tiện thiện xảo. Phương tiện thiện xảo y cứ vào Như Lai xuất hiện. Như Lai xuất hiện y cứ vào vô ngại tuệ quang minh, tức là Phật tánh, chân tâm hay viên giác tánh. Vì vậy vô ngại tuệ quang minh này không còn sở ngại, nó là chỗ viên mãn cứu cánh không còn y. Như hư không không có chỗ tựa mà hay bảo vệ tất cả thế giới, cũng vậy Phật tánh không có chỗ tựa mà hay sanh ra tất cả pháp.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Đại thiên thế giới đã thành tựu rồi, nhiêu ích vô lượng chúng sanh. Những loài thủy tộc được lợi ích nơi nước.
Lục địa chúng sanh được lợi ích nơi đất liền. Cung điện chúng sanh được lợi ích nơi cung điện. Hư không chúng sanh được lợi ích nơi hư không.
Cũng vậy, Như Lai xuất hiện nhiều thứ lợi ích cho vô lượng chúng sanh. Những là người thấy Phật sanh hoan hỷ thời được lợi ích nơi sự hoan hỷ. Kẻ an trụ nơi tịnh giới thời được lợi ích nơi tịnh giới. Kẻ trụ nơi các thiền định và môn vô lượng thời được lợi ích nơi Thánh xuất thế đại thần thông. Kẻ trụ pháp môn quang minh thời được lợi ích nhân quả chẳng hoại. Kẻ trụ vô sở hữu quang minh thời được lợi ích tất cả pháp chẳng hoại. Vì thế nên nói rằng đức Như Lai xuất hiện lợi ích tất cả vô lượng chúng sanh.
Đây là tướng xuất hiện thứ mười của đức Như Lai Đẳng chánh giác, đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng xuất hiện thứ mười, dùng thí dụ giải thích về những lợi ích khi Như Lai xuất hiện. Như thế giới thành tựu rồi thì tới nước, nước làm lợi ích cho cá và các loài thủy tộc. Đất làm lợi ích cho chúng ta và các loài thú. Hư không lợi ích cho các loài chim, chỗ nào cũng có lợi ích.
Đức Phật ra đời khiến tất cả chúng sanh đều có lợi ích. Người nào thấy Phật sanh tâm hoan hỷ thì có lợi ích nơi hoan hỷ. Được gặp Phật là nhân, sau này thành tựu quả Phật dễ dàng, vì thế trong tâm sanh hoan hỷ. Người an trụ tịnh giới thì được lợi ích của tịnh giới, chúng ta nương nơi Phật mà được thọ giới, thọ giới rồi gìn giữ thanh tịnh, thế là được lợi ích giới thanh tịnh. Người an trụ nơi thiền định và các môn vô lượng tức là tứ vô lượng tâm, thời được lợi ích Thánh xuất thế đại thần thông, vì độc cư thiền định và độc cư tứ vô lượng tâm là nhân của thần thông xuất thế tối thắng. Người trụ trong pháp môn quang minh được lợi ích nhân quả chẳng hoại.
Pháp môn quang minh này có hai cách giảng. Theo các kinh A-hàm, pháp môn quang minh là Tỳ-kheo quán hào quang được ánh sáng trùm khắp. Theo kinh đây, pháp môn quang minh là pháp môn trí tuệ, pháp môn này nhân quả chẳng hoại vì trí tuệ không sanh không diệt. Người trụ nơi vô sở hữu quang minh thì được lợi ích tất cả pháp chẳng hoại. Vô sở hữu là ngoại cảnh, biết ngoại cảnh không thật thì thấy các pháp không lầm, không có thành trụ hoại không. Như Lai xuất hiện lợi ích cho tất cả chúng sanh như thế.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát biết Như Lai xuất hiện thời biết vô lượng, vì biết thành tựu vô lượng hạnh.
Câu này nói rất gọn, nếu đại Bồ-tát biết Như Lai xuất hiện thì biết vô lượng, vì biết thành tựu vô lượng hạnh vậy. Chúng ta muốn biết nguyên nhân Như Lai xuất hiện, tức là muốn biết nguyên nhân tu hành thành Phật. Có nhiều nguyên nhân, tu vô lượng công đức mới thành tựu quả Phật, vì thế nói biết thành tựu vô lượng hạnh
Thời biết quảng đại, vì biết cùng khắp mười phương.
Như Lai trùm khắp mười phương, nên biết Như Lai là biết khắp mười phương.
Thời biết không lai khứ, vì biết lìa sanh, trụ, diệt.
Kinh Kim Cang nói: “Như Lai vô sở tùng lai diệc vô sở khứ, cố danh Như Lai”, tức là Như Lai không từ đâu đến cũng không có chỗ đi, vì lìa sanh trụ diệt. Khi nói tôi từ đâu đến thì tất nhiên phải có chỗ đến, có chỗ đến là thấy đến thật có đến, sanh thật có sanh. Nói tôi đi về đâu thì thật có chỗ đi về. Thấy có thân thật cảnh thật thì có đến đi sanh diệt. Pháp thân Phật trùm khắp không tướng mạo, không sanh trụ diệt nên không từ đầu đến, không đi về đâu.
Thời biết vô hành, vô sở hành, vì biết lìa tâm ý thức.
Như Lai xuất hiện là từ pháp thân thị hiện báo thân hóa thân, nhận được pháp thân thì báo thân hóa thân vô hành, vô sở hành. Vô hành nghĩa là vô nhân hành, vô sở hành tức là vô cảnh sở hành. Không thấy có hai, không thấy có Phật là nhân hành, không thấy có pháp là sở hành. Tại sao? Vì biết lìa tâm ý thức, tức là lìa tâm phân biệt ý thức.
Thời biết không thân, vì biết như hư không.
Biết Như Lai xuất hiện là nhận được pháp thân, biết pháp thân không có tướng mạo. Tuy nói pháp thân mà không có thân, rỗng rang như hư không.
Thời biết bình đẳng, vì biết tất cả chúng sanh đều vô ngã.
Biết Như Lai xuất hiện là biết pháp thân, biết pháp thân là biết bình đẳng. Tại sao? Vì không còn thấy có ngã, không còn ta người! Phàm phu chấp có ngã riêng tư nên không biết bình đẳng.
Thời biết vô tận, vì biết khắp tất cả cõi vô tận.
Như Lai xuất hiện là biết pháp thân khắp tất cả chỗ.
Thời biết vô thoái, vì biết tận hậu tế không đoạn tuyệt.
Biết Như Lai xuất hiện là biết vô thoái tức không lui sụt, vì thấy tột mẻ sau không đoạn dứt. Thường chúng ta chấp có thân có cảnh đang sống trong tam tế: mé trước, mé sau, mê giữa. Thấy có ba mé thì có mất có đoạn. Pháp thân không thuộc về tam tế, suốt tận hậu tế không đoạn dứt
Thời biết vô hoại, vì biết Như Lai trí không có đối đãi.
Biết Như Lai xuất hiện là biết vô hoại. Vô hoại là trí của Phật vượt qua tất cả phân biệt đối đãi, không còn hoại diệt. Trí của phàm phu là trí đối đãi, khi thấy cảnh, thấy người liền khởi niệm suy nghĩ phân biệt về người về cảnh. Trí ấy khi có người, có cảnh thì có, khi không người, không cảnh thì không. Trí của chư Phật thì hằng còn không mất, không bao giờ hoại được.
Thời biết vô nhị, vì biết bình đẳng quán sát hữu vi và vô vi.
Biết Như Lai xuất hiện là biết pháp thân bình đẳng, xem xét các pháp hữu vi vô vi không hai.
Thời biết tất cả chúng sanh đều được lợi ích, vì bản nguyện hồi hướng tự tại đầy đủ.
Biết Như Lai xuất hiện là biết tất cả nguyên nhân thành Phật, đó là bản nguyện hồi hướng tự tại đầy đủ. Bản nguyện của chư Phật là thành Phật để làm lợi ích cho chúng sanh. Khi biết như vậy, chúng ta phát nguyện như chư Phật, tức là Phật của chính mình đã xuất hiện đầy đủ. Lợi ích này rộng lớn vô cùng.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Thập lực Đại hùng vô thượng nhất
Ví như hư không vô đẳng đẳng
Cảnh giới quảng đại chẳng lường được
Công đức thứ nhất siêu thế gian.
Thập Lực công đức vô biên lượng
Tâm ý tư lương chẳng đến được
Một pháp môn của đức Thế Tôn
Chúng sanh ức kiếp chẳng biết được.
Thập lực Đại hùng vô thượng nhất, ví như hư không vô đẳng đẳng, ca ngợi Phật đầy đủ thập lực, là bậc đại hùng vô thượng hơn hết, ví như hư không, không có gì so sánh bằng. Cảnh giới quảng đại chẳng lường được, cảnh giới đây là chỉ cho pháp thân của Phật, rộng lớn chẳng thể lường. Thập Lực công đức vô biên lượng, Phật là bậc thập lực, công đức không ngằn mé. Tâm ý tư lương chẳng đến được, không thể nào dùng tâm ý đo lường được công đức ấy, chỉ một pháp môn của Phật, chúng sanh một ức kiếp cũng không biết được, đừng nói là vô lượng pháp môn.
Mười phương quốc độ nghiền làm trần
Hoặc có tính đếm biết số đó
Công đức bằng một lông của Phật
Ngàn muôn ức kiếp không nói được.
Giả sử đem mười phương cõi nước nghiền thành bụi, dù có thể tính đếm được số bụi đó, công đức của Phật bằng nhỏ xíu mảy lông tính đếm cũng không hết được. Thí dụ có ai chịu khó đào khoảnh đất khoảng chừng thước vuông phơi khô rồi đập nát, thử đếm được số bụi đất đó không? Chỉ một thước đất mà đếm còn không được, huống chi là mười phương thế giới nghiền nát thành bụi. Giả sử đếm được hết số bụi đó, so với công đức của Phật chỉ bằng mảy lông cũng đếm không được. Để thấy rằng số nhiều đến đâu mà còn trong hạn lượng, còn cố định thì còn có thể tính đếm được. Cái vượt ra ngoài ngôn ngữ văn tự, nghĩ bàn thì không thể lường, càng suy nghĩ càng sai, nên ngàn muôn ức kiếp không nói được.
Như người cầm thước đo hư không
Lại có người theo tính số thước
Biên tế hư không chẳng thể được
Cảnh giới Như Lai cũng như vậy.
Cầm thước đo hư không là việc không thể làm nổi, người đi theo đếm số thước cũng không thể được. Để thí dụ cảnh giới Như Lai không bờ mé, một mảy lông của cảnh giới đó cũng không bờ mé, không dùng cái gì để tính đếm được.
Hoặc có người trong khoảng sát-na
Biết được tâm chúng sanh ba thuở
Dầu nhiều kiếp bằng số chúng sanh
Chẳng biết được một niệm của Phật.
Như có người tài giỏi trong khoảng sát-na có thể biết được tâm chúng sanh ba đời, người ấy dù đem số kiếp bằng số chúng sanh cũng chẳng biết được một niệm của Phật. Một niệm của đức Phật là gì? Trong vô số vô lượng kiếp, ngài chỉ có một niệm, người thể nhập niệm đó thì biết, dùng suy nghĩ đo lường không được.
Ví như pháp giới khắp tất cả
Chẳng thấy lấy được, làm tất cả
Cảnh giới thập lực cũng như vậy
Khắp tất cả, chẳng phải tất cả.
Pháp giới là chỉ cho phép giới tánh khắp tất cả, chẳng thấy lấy được, làm tất cả, vì không thể thấy, không thể lấy nên nói là tất cả. Khắp tất cả, chẳng phải tất cả, cảnh giới thập lực là cảnh giới của Phật hay pháp thân Phật cũng như vậy, khắp tất cả mà chẳng phải tất cả. Tại sao? Như ánh nắng buổi trưa trùm khắp tất cả, nhưng ánh nắng chẳng phải cây, chẳng phải nhà, chẳng phải tất cả. Nó bao trùm tất cả mà không phải tất cả.
Nói tất cả là chỉ cho vật có hình tướng. Pháp thân Phật không hình tướng trùm khắp tất cả mà chẳng phải tất cả.
Chân như ly vọng hằng tịch tịnh
Không sanh không diệt khắp tất cả
Cảnh giới của Phật cũng như vậy
Thể tánh bình đẳng chẳng tăng giảm.
Chân như ly vọng hằng tịch tịnh, không sanh không diệt mà trùm khắp tất cả. Cảnh giới của Phật cũng như vậy, thể tánh bình đẳng chẳng tăng giảm.
Như thật tế mà chẳng phải tế
Khắp tại tam thế cũng chẳng khắp
Cảnh giới Như Lai cũng như vậy
Khắp tại tam thế đều vô ngại.
Thật tế là mê chân thật. Chỗ chân thật không hình tướng, chỉ tạm dùng ngôn từ nói cho dễ hiểu. Như danh từ đáo bỉ ngạn là đến bờ kia, có thật là bờ không? Chúng ta thí dụ đây là bờ sanh tử, kia là bờ Niết-bàn, tạm dùng như vậy. Cũng thế, nói mê này là mé hư vọng, mé kia là mé chân thật. Song chỗ chân thật không có mé, còn có mé thì không phải là chân thật, nên nói Như thật tế mà chẳng phải tế. Cảnh giới chư Phật trùm khắp vô ngại, trùm khắp ba đời mà chẳng khắp, vì không nằm trong hạn lượng ba đời.
Pháp tánh không làm không biến đổi
Dường như hư không vốn thanh tịnh
Chư Phật tánh tịnh cũng như vậy
Bản tánh phi tánh rời có không.
Pháp thân chư Phật cũng như pháp tánh không làm không biến đổi, vì là thể chân thật không do tạo tác nên không làm, không đổi dời dường như hư không vốn thanh tịnh. Chư Phật tánh tịnh cũng như vậy, bản tánh phi tánh rời có không. Tại sao bản tánh phi tánh? Như nói chúng sanh đều có Phật tánh. Phật tánh là tánh sáng suốt của mình, tánh đó không phải tánh. Tại sao? Người ta nói tánh tôi hay sân giận, tánh tôi hay buồn… Nói như vậy là chấp nhận buồn thương giận ghét đều thành tánh. Tánh đó với Phật tánh không giống nhau. Vì tánh tham sân si là không thật, chợt có chợt không; Phật tánh là thể thường hằng, trùm khắp, không hạn cuộc riêng nên không thể nói là Tánh như mọi người hiểu lầm.
Pháp tánh chẳng ở nơi ngôn luận
Rời hẳn ngôn thuyết hằng tịch diệt
Cảnh giới thập lực tánh cũng vậy
Tất cả văn từ chẳng biện được.
Không thể dùng ngôn ngữ luận bàn về pháp tánh, vì nó rời hẳn ngôn thuyết và hằng tịch tịnh. Cảnh giới thập lực tánh của Phật cũng như vậy, rời hẳn danh từ và biện biệt, chỗ đó gọi là ly ngôn.
Biết rõ các pháp tánh tịch diệt
Như chim bay không chẳng có dấu
Do bản nguyện lực hiện sắc thân
Khiến thấy Như Lai đại thần biến.
Pháp tánh tịch diệt chẳng khác nào như chim bay lượn giữa hư không, chẳng có dấu vết. Do bản nguyện lực hiện pháp thân, pháp tánh dụ cho hư không, chim bay dụ cho hóa thân. Hóa thân hiện từ pháp thân, gọi là thần biến không thể tìm dấu vết hóa hiện. Như chim bay giữa hư không, muốn tìm dấu vết cũng không thể được. Hóa thân từ pháp thân hiện, nhưng tìm dấu vết nơi pháp thân không có, gọi là đại thần biến của Như Lai.
Có ai muốn biết Phật cảnh giới
Phải tịnh ý mình như hư không
Xa lìa vọng tưởng, rời chấp lấy
Khiến tâm hướng đến đều vô ngại.
Từ trước đến đây, Bồ-tát đã mô tả cảnh giới Phật, người muốn biết cảnh giới Phật phải tịnh ý lặng lẽ như hư không, xa lìa vọng tưởng, rời chấp trước, khiến tâm hướng đến đều vô ngại, lúc đó sẽ biết cảnh giới của Phật.
Hằng ngày chúng ta ngồi thiền để làm gì? Qua bốn câu này đã nói lên việc hệ trọng trong sự tu. Đó là lặng tâm ý, tâm thanh tịnh rỗng rang như hư không, xa rời vọng tưởng không thủ trước, chỉ còn một tánh vô ngại. Đó chính là thật sự biết cảnh giới Phật. Kinh và thiền đều chỉ dạy giống nhau.
Vì thế Phật tử phải khéo nghe
Tôi dùng chút dụ rõ Phật cảnh
Thập lực công đức chẳng lường được
Vì ngộ chúng sanh nay lược nói.
Bồ-tát muốn chỉ cảnh giới Phật, nên dùng thí dụ nói rõ cho chúng sanh hiểu.
Đạo sư đã hiện nơi thân nghiệp
Ngữ nghiệp, tâm nghiệp các cảnh giới
Chuyển diệu pháp luân nhập Niết-bàn
Tất cả căn lành nay tôi nói.
Đây là diễn bày ba nghiệp của Phật, nơi các cảnh giới chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn.
Kinh Hoa Nghiêm giúp cho chúng ta hiểu tường tận về cảnh giới bất tư nghì của Phật. Các kinh khác đa số đều dạy chúng ta tu, để thể nhập pháp thân, nhưng không diễn bày cảnh giới của pháp thân mà chỉ nói tu dứt vọng tưởng, tâm rỗng rang như hư không sẽ nhập cảnh giới Phật. Nhiều người tu đến chỗ tâm rỗng rang như hư không thì lại hoảng hốt mất nơi nương tựa. Vì thế, kinh Hoa Nghiêm diễn bày pháp giới duyên khởi, nói về cảnh giới sau khi tâm rỗng rang, để người tu tin chắc rằng khi tâm lặng lẽ thanh tịnh rồi, vượt qua chỗ dụng công ấy, sẽ hiện cảnh giới bất tư nghì, không phải đến đó là hết là cùng.
Giáo lý của Phật có nhiều cách nói về Niết-bàn, Kinh A-hàm nói A-la-hán sau khi nhập Niết-bàn như củi hết lửa tắt. Nghe như vậy chúng ta tưởng cảnh giới Niết-bàn là hư vô, tịch diệt, không có gì hết. Hoặc theo Tứ đế thì nói Niết-bàn là Diệt đế. Diệt đế là diệt hết nhân sanh tử luân hồi, nhưng không biết cảnh giới Niết–bàn như thế nào? Các kinh điển Nguyên thủy thường không chú trọng đến việc sau khi nhập Niết-bàn, chỉ chú trọng việc tu chấm dứt sanh tử.
Đến tinh thần các kinh điển theo hệ Phát triển, nhấn mạnh phần độ sanh lợi tha nên diễn tả cảnh giới Niết-bàn tích cực hơn. Ban đầu hệ Bát-nhã diễn tả Niết-bàn theo ý nghĩa phá chấp, nghĩa là phá chấp ngã, chấp pháp, không diễn tả cảnh giới Niết-bàn. Như Bát-nhã Tâm Kinh chúng ta hằng tụng đọc, ý nghĩa chuyên sâu về tánh Không, dứt hết tất cả ngôn thuyết, không có vô minh, không có chấm dứt vô minh… cảnh giới cuối cùng là cảnh giới vô sở đắc. Cảnh giới Niết-bàn vô sở đắc lại càng khó hiểu hơn.
Chư tổ nhân tích hệ Bát-nhã thuộc về Đại thừa chân không, còn các kinh Hoa Nghiêm, Niết-bàn… thuộc về Đại thừa diệu hữu. Vì thế kinh Hoa Nghiêm diễn tả cảnh giới chư Phật Bồ-tát trang nghiêm, có nhiều vẻ đẹp phi thường. Đây là cảnh giới Niết-bàn của người tu sau khi thể nhập pháp thân, từ pháp thân hiện ra diệu dụng bất khả tư nghì. Dùng thức tình phàm phu thì không thể nghĩ bàn, không thể suy lường về cảnh giới Niết-bàn nên trong các kinh ban đầu Phật không nói. Đến khi căn cơ chúng sanh thuần thục cần khuyến khích cho họ nỗ lực, mở rộng tinh thần độ sanh, không phải đạt Niết-bàn rồi không ngơ, Vì lẽ đó kinh Niết-bàn diễn tả bốn đức của Niết-bàn là thường, lạc, ngã, tịnh, để thấy rằng tới đó không phải là hết.
Kinh này diễn tả vô lượng đức của Như Lai không thể nghĩ bàn, không thể tính đếm, thí dụ, thuộc về pháp giới duyên khởi bất tư nghì. Pháp giới chỉ cho pháp tánh chân tâm, duyên khởi là từ thể tánh chân không khởi lên diệu dụng không thể nghĩ bàn. Hiểu như vậy, chúng ta mới biết lý do kinh Hoa Nghiêm được xếp vào Đại thừa hữu tông, cũng hiểu thâm ý của kinh qua những đoạn diễn tả về những điều không thể tưởng tượng. Cảnh giới của Như Lai là cảnh giới của pháp thân bất tư nghì. Muốn đến cảnh giới đó, tâm phải lìa vọng tưởng, ý phải thanh tịnh như hư không. Đến cảnh giới đó sẽ thấy sức diệu dụng thần biến, lợi ích vô lượng chúng sanh, không phải đến cảnh giới đó rồi trống rỗng không ngơ. Đây là then chốt của kinh Hoa Nghiêm.
Ví như thế giới mới an lập
Chẳng phải một duyên mà thành được
Vô lượng phương tiện nhiều nhân duyên
Làm thành Đại thiên thế giới này.
Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Vô lượng công đức mới được thành
Sát trần tâm niệm còn biết được
Thập lực sanh nhân chẳng lường được.
Như thế giới mới an lập do nhiều nhân duyên, Như Lai xuất hiện cũng do nhiều công đức mới được thành.
Ví như kiếp sơ mây tuôn mưa
Mà khởi bốn thứ đại phong luân
Chúng sanh thiện căn Bồ-tát lực
Thành Đại thiên này đều an trụ.
Thập lực pháp vân cũng như vậy
Khởi trí phong luân ý thanh tịnh
Xưa các chúng sanh đã hồi hướng
Đạo sư khiến thành quả Vô thượng.
Như khi kiếp này mới hình thành có bốn thứ phong luân, do thiện căn của chúng sanh và Bồ-tát mà thành tựu. Thập lực pháp vân cũng như vậy, mây pháp của Phật cũng như vậy. Khởi trí phong luân ý thanh tịnh, là do mây pháp của Phật khởi lên bốn trí phong luận.
Xưa các chúng sanh đã hồi hướng, Đạo sư khiến thành quả Vô thượng, nghĩa là các chúng sanh xưa đã có hồi hướng về Phật quả, thì đức Phật dùng trí của ngài để đưa mọi người đến quả vị vô thượng.
Như có mưa to hiệu hồng chú
Không có nơi nào dung thọ được
Chỉ trừ thế giới lúc sắp thành
Hư không thanh tịnh sức gió lớn.
Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Khắp mưa pháp vũ đầy pháp giới
Những kẻ ý liệt không thọ được
Chỉ trừ tâm thanh tịnh quảng đại.
Như mưa to không nơi nào dung thọ, chỉ có thế giới lúc mới thành là có thể chịu được, để chỉ cho hàng Bồ-tát mới có thể lãnh thọ được pháp của Phật, còn hàng Thanh văn, Duyên giác thì không thể.
Ví như trên không tuôn mưa lớn
Không từ đâu đến không đi đâu
Tác giả, thọ giả cũng đều không
Như vậy tự nhiên khắp thấm ướt.
Thập lực pháp vũ cũng như vậy
Không khứ, không lai, không tạo tác
Bản hạnh làm nhân sức Bồ-tát
Tất cả đại tâm đều nghe lãnh.
Như mưa không từ đâu đến, không đi đâu, mưa pháp của Như Lai cũng vậy, từ pháp thân dấy hiện ra các phương tiện giáo hóa chúng sanh mà không có ngã, không có nhân, không có đến, không có đi, không có tạo tác… chỉ có Bồ-tát mới hiểu được lẽ đó.
Ví như mây to tuôn mưa lớn
Không ai đếm được số giọt mưa
Chỉ trừ Ma-hê-thủ-la thiên
Đủ sức công đức đều biết rõ,
Thiện Thệ pháp vũ cũng như vậy
Tất cả chúng sanh không lường được
Chỉ trừ đấng Tự Tại thế gian
Như trong bàn tay xem thấy rõ.
Như mưa to, chỉ có trời Tha Hóa Tự Tại mới đếm được số giọt mưa, để dụ cho pháp Phật, chỉ có hàng Bồ-tát mới biết rõ ràng.
Ví như mây to tuôn mưa lớn
Hay diệt, hay khởi, cũng hay dứt
Tất cả trân bảo đều hay thành
Đại thiên mọi vật đều sai khác.
Thập lực pháp vũ cũng như vậy
Diệt ác, khởi lành, dứt kiến chấp
Báu nhất thiết trí đều khiến thành
Chúng sanh sở thích đều sai khác.
Mây to tuôn mưa hay làm thành trân bảo cho thế gian, để dụ cho đức Phật dùng nhất thiết trí giáo hóa chúng sanh, tùy theo căn cơ sai biệt đều làm cho họ được lợi ích.
Ví như trên không mưa một vị
Tùy chỗ được mưa đều chẳng đồng
Tánh của mưa kia không phân biệt
Nhưng tùy vật khác, tất như vậy.
Như Lai pháp vũ chẳng một khác
Bình đẳng tịch tịnh lìa phân biệt
Nhưng tùy sở hóa nhiều loại khác
Tự nhiên vô biên tướng như vậy.
Nước mưa chỉ một vị không phân biệt, tùy vật tiếp nhận mà có khác. Ý nói giáo pháp của đức Phật chỉ có một, tùy chỗ giáo hóa mà hiện ra vô biên tướng.
Ví như thế giới lúc mới thành
Trước thành Sắc giới Thiên cung điện
Kế Dục thiên cung, kế đến người
Cung Càn-thát-bà thành sau rốt.
Như Lai xuất hiện cũng như vậy
Trước khởi vô biên Bồ-tát hạnh
Kế độ Duyên giác ưa tịch diệt
Kế chúng Thanh văn, đến chúng sanh.
Thế giới lúc mới thành, cung điện Sắc giới thành trước rồi dần xuống các cõi, để chỉ cho giáo pháp của đức Phật thứ tự giáo hóa từ cao xuống thấp.
Chư thiên mới thấy điềm liên hoa
Vui mừng biết Phật sẽ xuất thế
Do nước, sức gió khởi thế gian
Cung điện núi sông đều thành lập.
Như Lai thiện lực đại quang minh
Khéo thọ ký cho chư Bồ-tát
Bao nhiêu trí luân thể đều sạch
Đều hay khai thị các Phật pháp.
Chư thiên khi nhìn thấy hoa sen vừa nở biết sẽ có Phật ra đời. Cũng vậy, đức Phật giáo hóa các hàng Bồ-tát, ngài biết căn cơ của các vị bao lâu sẽ thành Phật, nhân đó mà thọ ký cho.
Ví như rừng cây nương đất có
Đất nương nơi nước chẳng tan hư
Nước nương phong luân, phong nương không
Mà hư không kia không nương dựa.
Tất cả Phật pháp nương từ bi
Từ bi lại nương phương tiện lập
Phương tiện nương trí, trí nương tuệ
Thân vô ngại tuệ không chỗ nương.
Trên thế giới, cây nương đất, đất nương nước, nước nương gió, gió nương hư không, hư không không chỗ nương. Đây dụ cho Phật pháp nương từ bi, từ bi nương phương tiện, phương tiện nương trí, trí nương tuệ cho đến thân vô ngại tuệ không nương vào đâu. Thân vô ngại tuệ tức là pháp thân, pháp thân thì không nương tựa nơi đâu.
Ví như thế giới đã thành lập
Tất cả chúng sanh được lợi ích
Loài ở đất, ở nước, hư không
Hai chân, bốn chân đều được lợi.
Pháp vương xuất hiện cũng như vậy
Tất cả chúng sanh đều được nhờ
Nếu có thấy nghe và thân cận
Đều khiến trừ diệt những hoặc não
Như Lai xuất hiện pháp vô biên
Thế gian mê lầm chẳng biết được
Vì muốn khai ngộ những hàm thức
Trong không ví dụ mà nói dụ.
Đến đây Bồ-tát Phổ Hiền kết luận, đức Phật ra đời lợi ích vô lượng vô biên cho chúng sanh, mà chúng sanh lầm mê không biết. Vì vậy ngài tạm dùng thí dụ để nói, đó là trong chỗ không thể thí dụ mà tạm mượn thí dụ để khai ngộ chúng sanh.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải như thế nào mà thấy thân của đức Như Lai Đẳng chánh giác?
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải ở vô lượng xứ mà thấy thân Như Lai. Vì chư đại Bồ-tát chẳng nên ở một pháp, một sự, một thân, một quốc độ, một chúng sanh mà thấy Như Lai. Phải khắp tất cả nơi thấy Như Lai.
Phải như thế nào để thấy thân Phật? Không phải ở một chỗ, một nơi, một hình tướng mà thấy thân Phật. Đại Bồ-tát phải ở vô lượng xứ mới có thể thấy thân Phật. Thấy thân Phật là thấy thân nào? Không phải thân Phật ở Ấn Độ cao trượng sáu. Đây là pháp thân trùm khắp, muốn thấy pháp thân phải có con mắt trùm khắp. Vì lẽ này nhà thiền nói “Con mắt của Sa-môn trùm khắp mười phương thế giới, chiếu khắp vô lượng vô biên thế giới”. Đây là con mắt trí tuệ. Làm sao để được con mắt trí tuệ? Hãy dứt hết những vọng tưởng kiến chấp hằng ngày. Lúc tâm không còn vọng tưởng kiến chấp thì lặng lẽ rỗng rang như hư không. Lặng lẽ rỗng rang như hư không nên trùm khắp mười phương, đó là lúc thấy được Phật.
Có thể hiểu thêm ý nghĩa câu Đại Bồ-tát phải ở vô lượng xứ mà thấy thân Như Lai, nghĩa là Bồ-tát không phải chỉ một đời này tạo bao nhiêu công đức là đủ, mà phải tu tập trong vô lượng đời vô lượng kiếp mới thấy được thân Phật.
Ví như hư không đến khắp tất cả chỗ sắc phi sắc, chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì hư không chẳng có thân. Cũng vậy, thân Như Lai khắp tất cả chỗ, khắp tất cả chúng sanh, khắp tất cả pháp, khắp tất cả quốc độ, chẳng phải đến chẳng phải chẳng đến. Vì thân Như Lai là không có thân. Vì chúng sanh mà thị hiện thân Phật. Đây là tướng thứ nhất của thân Như Lai. Chư đại Bồ-tát phải thấy như vậy.
Thân Phật không có thân, như hư không trùm khắp chẳng có hình dáng riêng biệt. Thân ấy là pháp thân vô tướng, vì chúng sanh mà thị hiện thân Phật gọi là hóa thân. Pháp thân không thể thấy, hóa thân có hình tướng nên có thể thấy. Cảnh duyên khởi của pháp giới tức là của pháp thân, vì chúng sanh mà hiện hóa thân để hóa độ, hoặc báo thân có đầy đủ phước đức trí tuệ khiến cho chúng sanh được lợi ích. Như vậy chúng ta tu hành để trở về pháp thân, rồi thị hiện hóa thân, báo thân làm lợi ích vô lượng chúng sanh, chứ không phải không ngơ.
Đây là tướng đặc biệt đầu tiên, Bồ-tát phải luôn tu tập để thể nhập tướng đó.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như hư không rộng rãi chẳng phải sắc mà hay hiển hiện tất cả sắc. Nhưng hư không kia không có phân biệt cũng không hý luận. Thân của Như Lai cũng vậy. Vì do trí quang minh khắp chiếu sáng làm cho tất cả chúng sanh, thế gian xuất thế gian, các nghiệp thiện căn đều được thành tựu. Nhưng thân Như Lai không có phân biệt cũng không hý luận. Vì từ xưa đến nay, tất cả chấp trước, tất cả hý luận đều đã dứt hẳn.
Đây là tướng thứ hai của thân Như Lai. Chư đại Bồ-tát phải thấy như vậy.
Tướng thứ hai, pháp thân Phật trùm khắp mười phương như hư không, không phân biệt, không hý luận. Ở tướng thứ nhất, chỉ nói thân trùm khắp mà chưa nói đến chỗ không phân biệt, không hý luận. Không hý luận tức là không nói bàn những điều vô nghĩa không đúng chân lý.
Có thể nói thân thứ hai của Phật là thân vô phân biệt hay chính là trí vô phân biệt? Cho nên nói rằng dùng trí quang minh ấy chiếu sáng làm cho chúng sanh, thế gian, xuất thế gian thành tựu nghiệp thiện căn. Trí quang không phân biệt, không chấp trước, thành tựu trí tuệ sáng suốt, biết rõ tất cả nhưng không luận bàn việc phải quấy thị phi của thế gian. Đây là công đức tu thể nhập pháp thân được vô phân biệt trí, làm lợi ích tất cả chúng sanh.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mặt nhật mọc lên, vô lượng chúng sanh ở Diêm-phù đề được lợi ích. Những là phá tối làm sáng, biến ướt thành khô, sanh trưởng cỏ cây, thành thục lúa mạ, chói suốt hư không, hoa sen nở xòe, người đi thấy đường, kẻ ở nhà xong công việc. Vì mặt nhật khắp phóng vô lượng quang minh.
Như Lai trí nhật cũng như vậy, dùng vô lượng sự khắp lợi ích chúng sanh. Những là diệt ác sanh lành, phá ngu làm trí, đại từ cứu hộ, đại bi độ thoát, làm cho họ tăng trưởng căn, lực, giác phần, khiến sanh lòng tin sâu chắc, bỏ lìa tâm ô trược, khiến kẻ thấy nghe chẳng hư nhân quả, khiến được thiên nhãn thấy chỗ thọ sanh sau khi chết, khiến tâm vô ngại chẳng hư căn lành, khiến trí tỏ sáng mau nở giác hoa, khiến họ phát tâm thành tựu bản hạnh. Vì thân mặt nhật trí tuệ quảng đại của Như Lai phóng vô lượng quang minh chiếu sáng khắp nơi.
Đây là tướng thứ ba của thân Như Lai, chư đại Bồ-tát phải thấy như vậy.
Chúng ta noi theo công hạnh chư Phật, Bồ-tát tu thành Phật để giáo hóa chúng sanh. Nhiều người cho rằng đức Phật Thích-ca nhập Niết-bàn không trở lại thì làm sao giáo hóa chúng sanh? Nhập Niết-bàn là thị hiện, còn thể pháp thân thường trụ, diệu dụng vô cùng, tùy căn cơ thị hiện trùm khắp lợi ích vô cùng tận. Trong kinh Pháp Hoa Phật nói “Ta ở nơi khác lại có tên khác…” hóa thân có nhiều tên nhiều tướng, không phải một. Cho nên đức Phật tuy nhập Niết-bàn mà vẫn làm lợi ích tất cả chúng sanh.
Thí như ánh sáng mặt trời soi rọi khắp vạn vật đều được lợi ích. Cũng vậy, khi thể nhập pháp thân dùng trí tuệ quảng đại như mặt nhật của Như Lai phóng vô lượng hào quang chiếu sáng khắp nơi, tất cả chúng sanh đều được lợi ích. Người ác thì bỏ ác làm lành, người ngu thì phá ngu thành trí, được tăng trưởng lòng tin, xa lìa tâm ô nhiễm… cho đến chóng nở giác hoa. Chúng sanh gặp hào quang của Phật được lợi ích rộng lớn, mà Phật không dụng công, cũng như mặt trời chiếu sáng làm lợi ích tất cả mà không dụng công.
Tướng thứ ba của thân Như Lai như mặt trời chiếu sáng thế gian lợi ích tất cả chúng sanh như thế.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mặt nhật mọc lên, trước hết chiếu những núi lớn như núi Tu-di…, kế chiếu hắc sơn, kế chiếu cao nguyên, sau rốt chiếu khắp đại địa. Mặt nhật chẳng nghĩ rằng ta trước chiếu đây rồi sau sẽ chiếu nơi kia. Chỉ do núi và mặt đất có cao và thấp nên chiếu có trước và sau.
Đức Như Lai Đẳng chánh giác cũng như vậy. Thành tựu vô biên pháp giới trí luân, thường phóng vô ngại trí tuệ quang minh. Trước chiếu chư đại Bồ-tát, kế chiếu Duyên giác, kế chiếu Thanh văn, kế chiếu chúng sanh có thiện căn quyết định, tùy theo tâm khí của họ mà thị hiện trí quảng đại, sau rốt chiếu khắp tất cả chúng sanh, nhẫn đến kẻ tà định cũng chiếu đến để làm nhân duyên lợi ích thuở vị lai khiến họ được thành thục.
Nhưng đức Như Lai Đại Trí Nhật Quang chẳng nghĩ rằng ta phải chiếu Bồ-tát đại hạnh, nhẫn đến sau rốt sẽ chiếu tà định chúng sanh. Chỉ phóng trí quang bình đẳng chiếu khắp, vô ngại, vô chướng, vô phân biệt. Chư Phật tử! Ví như mặt nhật, mặt nguyệt, tùy thời xuất hiện, núi lớn, hang tối chiếu khắp không riêng tư.
Như Lai trí tuệ cũng như vậy, chiếu khắp tất cả không có phân biệt. Tùy theo chúng sanh căn khí, sở thích không đồng mà trí tuệ quang minh có nhiều thứ khác nhau.
Đây là tướng thứ tư của thân Như Lai, đại Bồ-tát phải thấy như vậy.
Tướng thứ tư của Như Lai xuất hiện như mặt trời mọc trên cao, trước tiên chiếu các đỉnh núi lớn như núi Tu-di, kế đó chiếu đến cao nguyên rồi mới chiếu khắp đất bằng. Mặt trời không nghĩ rằng ta chiếu nơi này trước, sau mới đến nơi kia, chỉ vì núi non đất liền có cao thấp nên nhận ánh sáng mặt trời có trước sau.
Như Lai cũng vậy, thành tựu trí tuệ chiếu soi vô biên khắp pháp giới, ánh sáng vô ngại chiếu đến hàng đại Bồ-tát, Duyên giác, Thanh văn, rồi đến các chúng sanh có căn lành, cuối cùng chiếu soi khắp tất cả chúng sanh, kể cả những người tà định đều làm cho thành thục lợi ích. Ánh sáng trí tuệ của Như Lai không phân biệt trước chiếu soi hàng đại Bồ-tát, rồi sau mới đến chúng sanh căn cơ thấp.
Ánh sáng của chư Phật bình đẳng, không chướng ngại, không phân biệt, giáo hóa khắp chúng sanh không riêng tư. Chỉ vì căn cơ chúng sanh khác nhau nên nhận lợi ích có trước sau sai khác. Hàng căn cơ bậc thượng nghe hiểu tin nhận trước, căn cơ bậc trung nghe hiểu tin nhận kế tiếp, cho đến hàng căn cơ kém quá như chúng ta, phải hai ba ngàn năm sau mới hiểu một chút, mới có lợi ích. Phật bình đẳng giáo hóa như ánh sáng mặt nhật nhưng sự lợi ích của chúng sanh khác nhau, chỉ vì căn cơ có sâu cạn.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mặt nhật mọc lên, những kẻ sanh manh vì không nhãn căn nên trọn không thấy. Dầu không thấy, nhưng vẫn được ánh sáng mặt nhật làm lợi ích. Vì do mặt nhật mà biết thời tiết ngày đêm, thọ dụng các thứ y phục, ẩm thực, khiến thân mạnh khỏe khỏi tật bệnh.
Như Lai trí nhật cũng như vậy. Những kẻ không tin, không hiểu, phá giới, phá kiến, tà mạng sanh sống, vì không tín nhãn nên chẳng thấy chư Phật trí tuệ. Dầu không thấy, nhưng vẫn được sự lợi ích nơi trí tuệ của Phật. Vì do oai lực của Phật làm cho những chúng sanh đó, các sự khổ nơi thân và những phiền não nhân khổ vị lai đều được tiêu diệt.
Tướng thứ năm của Như Lai xuất hiện như mặt trời mọc lên, những người mù tuy không thấy ánh sáng nhưng vẫn được lợi ích, thân thể mạnh khỏe, khỏi tật bệnh.
Người không tin Phật ví như kẻ mù, nhưng nương trí tuệ Phật vẫn được lợi ích. Như kẻ trộm cướp không tin Phật, nhưng vẫn ngầm biết việc mình làm là có tội, bị mọi người xa lánh. Nhờ biết như thế, lòng tham giảm dần, gặp duyên liền thức tỉnh, họ không dám làm việc đó nữa. Thí như có người bình thường không tin Phật, nhưng khi gặp tai nạn quá sức đau khổ thì đi chùa cầu cúng, niệm Phật xin được bình an. Lúc đó tâm họ cũng được an ủi phần nào. Thế là cũng có lợi ích ngầm mà không thấy.
Nếu không có Phật ra đời, không nói tội trộm cướp bị đọa địa ngục, thì họ sẽ làm hoài không chán.
Biết sợ địa ngục, biết thức tỉnh trên việc làm của mình là nương trí tuệ Như Lai.
Chư Phật tử! Đức Như Lai có quang minh tên là Tích tập tất cả công đức. Có quang minh tên là Chiếu khắp tất cả. Có quang minh tên là Thanh tịnh tự tại chiếu. Có quang minh tên là Xuất đại diệu âm. Có quang minh tên là Hiểu khắp tất cả ngữ ngôn khiến sanh hoan hỷ. Có quang minh tên là Thị hiện cảnh giới tự tại dứt hẳn tất cả nghi ngờ. Có quang minh tên là Trí vô trụ tự tại chiếu khắp. Có quang minh tên là Trí tự tại dứt hẳn tất cả hý luận. Có quang minh tên là Tùy sở nghi xuất diệu âm. Có quang minh tên là Xuất âm thanh tự tại thanh tịnh trang nghiêm quốc độ thành thục chúng sanh.
Quang minh là ánh sáng trí tuệ, tên các ánh sáng ấy nói lên ý nghĩa chứa nhóm công đức, phát ra âm thanh vi diệu, ngôn ngữ làm lợi ích cho chúng sanh, hiểu biết ngôn ngữ khiến chúng sanh hoan hỷ, thị hiện những cảnh giới tự tại, dứt hẳn tất cả những nghi ngờ… Khi Như Lai xuất hiện có đầy đủ những ánh sáng như thế.
Chư Phật tử! Mỗi lỗ chân lông của đức Như Lai phóng ra ngàn thứ quang minh như vậy. Năm trăm quang minh chiếu khắp hạ phương, năm trăm quang minh chiếu khắp thượng phương các chúng Bồ-tát ở chỗ chư Phật trong tất cả cõi. Những Bồ-tát đó thấy quang minh này đồng thời đều được cảnh giới Như Lai: mười đầu, mười mắt, mười tai, mười mũi, mười lưỡi, mười thân, mười tay, mười chân, mười địa, mười trí đều thanh tịnh tất cả.
Chúng ta thường thấy hình tượng Bồ-tát Quán Thế Âm có ngàn tay ngàn mắt, đây thì nói Bồ-tát có mười đầu, mười tay, mười mắt, mười mũi… Vì muốn nói sự viên mãn nên dùng số mười để tượng trưng. Mười là thập phương trùm khắp viên mãn, ý nói Bồ-tát có tay viên mãn, đầu viên mãn, mắt viên mãn, tai viên mãn, tất cả đều viên mãn tròn đầy.
Chư Bồ-tát đó trước đã thành tựu những xứ, những địa, khi thấy quang minh này thời lại thanh tịnh hơn, tất cả thiện căn thảy đều thành thục, hướng đến nhất thiết trí.
Chư Bồ-tát có sức thành tựu những xứ những địa Xứ địa là gì? Tức là những tâm hạnh, hoặc là ở những chỗ nơi, ở những địa vị tu hành đã được đầy đủ. Khi gặp được quang minh của Phật thì thanh tịnh hơn, tất cả căn lành thành thục hướng đến nhất thiết trí.
Hạng trụ ở Nhị thừa thời diệt tất cả phiền não. Ngoài ra một phần sanh mạnh chúng sanh nhờ quang minh này, thân đã an lạc nên tâm họ cũng thanh tịnh nhu nhuyến điều phục, kham tu niệm trí. Các chúng sanh nơi ác đạo: địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh đều được khoái lạc giải thoát những khổ, khi mạng chung đều được sanh lên cõi trời hoặc nhân gian.
Chư Phật tử! Những chúng sanh đó chẳng biết do nhân duyên gì, do thần lực nào mà sanh về đây. Hàng sanh manh kia nghĩ rằng ta là Phạm thiên, ta là Phạm hóa. Bấy giờ đức Như Lai trụ trong Phổ tự tại tam-muội, phát ra sáu mươi thứ diệu âm mà bảo họ rằng: “Các ngươi chẳng phải là Phạm thiên, Phạm hóa, cũng chẳng phải là Đế thích hộ thế làm ra, mà đều do thần lực của Như Lai.” Những chúng sanh đó nghe lời trên đây liền đều được biết đời trước và đều rất hoan hỷ. Vì tâm hoan hỷ nên tự nhiên hiện ra mây hoa ưu-đàm, mây hương, mây âm nhạc, mây y phục, mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương bột, mây châu báu, mây tràng sư tử lầu các bán nguyệt, mây ca ngâm khen ngợi, mây những đồ trang nghiêm, đều cúng dường đức Như Lai với lòng tôn trọng. Vì những chúng sanh đó được tịnh nhãn, đức Như Lai thọ ký vô thượng Bồ-đề cho họ.
Chư Phật tử! Như Lai trí nhật lợi ích cho hàng sanh mạnh chúng sanh như vậy, làm cho họ được thiện căn thành thục đầy đủ.
Đây là tướng thứ năm của thân Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Quang minh từ lỗ chân lông của Phật phóng ra có những công đức viên mãn khiến hàng Nhị thừa thân tâm thanh tịnh dứt hết phiền não, chúng sanh mù lòa thì tâm được điều phục, hàng địa ngục, ngạ quỷ được hết các nghiệp khổ, sanh lên cõi trời… Những việc này có trái với lời Phật dạy, bảo phải do tu nhân mới được hết khổ, đây lại nói do được quang minh của Phật mà thoát khỏi khổ?
Kinh này thuần diễn tả pháp thân, mỗi lỗ chân lông phóng ra quang minh vô lượng, tức là pháp thân trùm khắp sáng suốt không ngằn mé. Hàng Bồ-tát ngộ được pháp thân thì thành tựu viên mãn, Thanh văn nhận được pháp thân thì phiền não sạch, chúng sanh mù lòa tin nhận pháp thân liền được điều phục, ngạ quỷ súc sanh biết được pháp thân thì liền được sanh lên cõi trời. Đây không phải do thần lực biến hóa mà do thần lực của pháp thân, khiến tất cả chúng sanh biết được, cảm được liền thoát khỏi khổ.
Chúng sanh khi đã sanh lên cõi trời thì nghĩ rằng mình là Phạm thiên, Phạm hóa hay do Đế-thích làm ra. Như Lai trụ trong Phổ tự tại tam-muội, phát ra diệu âm nói cho các chúng sanh ấy biết, đó là do thần lực của Như Lai làm ra. Chúng sanh tự mê lầm pháp thân gọi là vô minh, từ đó tạo nghiệp lăn lộn trong lục thú, đọa địa ngục, ngạ quỷ, súc sanh… Đến khi cảm nhận được pháp thân thì bao nhiêu tội nghiệp liền hết, được sanh vào những cõi lành.
Khi được sanh ra, các chúng sanh ấy không biết tại sao sanh ra đây, không biết cội gốc từ pháp thân, vì mê lầm mà hiện diện, cứ cho rằng do Phạm thiên, Đế-thích hoặc Thời… tạo. Tức là do thượng đế, trời đất, tạo hóa tạo ra con người và cảnh vật. Phật từ trong tam-muội trùm khắp nói cho chúng sanh biết tất cả đều do chân tâm hiện ra các cảnh giới. Những chúng sanh ấy nhận biết được ý nghĩa này, hiểu rõ mình luân hồi sanh tử là do mê lầm pháp thân. Bây giờ liền phát tâm trở về nhận lại pháp thân, lúc đó tâm rất hoan hỷ hiện ra các thứ cúng dường. Chỗ cúng dường hiện ra như mây hương hoa, mây âm nhạc… nhiều vô lượng không có ngằn mé.
Dùng nhiều thí dụ trang nghiêm đẹp đẽ để chứng tỏ khi chúng sanh tin chắc thật vào Như Lai, trở về với pháp thân thì có diệu dụng không lường. Hiểu được điều này liền mạnh mẽ phát tâm cúng dường Phật, mạnh mẽ trở lại bản nguyên pháp thân. Đây nói vì những chúng sanh đó được mắt trong sạch nên đức Như Lai thọ ký vô thượng Bồ-đề, chắc chắn sẽ thành Phật.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như mặt nguyệt có bốn pháp kỳ đặc vị tằng hữu:
Một là che chói quang minh của tất cả tinh tú.
Hai là theo dõi thời gian mà hiện tròn khuyết.
Ba là trong nước đứng trong ở đại địa đều hiện bóng cả.
Bốn là tất cả người thấy mặt nguyệt đều đối trước mắt họ, mà nguyệt luân không phân biệt không hý luận.
Chư Phật tử! Thân của Như Lai cũng vậy, có bốn pháp kỳ đặc vị tằng hữu:
Một là che chói tất cả hàng Thanh văn, Duyên giác, những chúng hữu học, vô học.
Hai là tùy theo sở nghi mà thị hiện thọ mạng dài ngắn chẳng đồng, nhưng thân Như Lai không tăng giảm.
Ba là trong căn khí Bồ-đề chúng sanh tâm tịnh nơi tất cả thế giới đều hiện bóng trong đó.
Bốn là tất cả chúng sanh có ai thấy Như Lai đều cho rằng đức Như Lai chỉ hiện trước tôi. Như Lai theo sở thích của họ mà thuyết pháp, theo địa vị của họ khiến được giải thoát, theo chỗ đáng hóa độ khiến thấy thân Phật. Nhưng thân Như Lai vẫn không phân biệt không hý luận. Những điều lợi ích làm ra đều được rốt ráo.
Đây là tướng thứ sáu của thân Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Đây là tướng thứ sáu của Như Lai xuất hiện, tướng này khiến chúng ta nhận hiểu rõ ràng, không ngờ vực về pháp tu. Đây dùng thí dụ mặt nguyệt có bốn pháp kỳ đặc: Mặt nguyệt che chói các ngôi sao, mặt nguyệt theo thời gian mà tròn khuyết, mặt nguyệt hiện bóng trong tất cả nước ao hồ, mặt nguyệt không ngoại trừ ai, người nào đứng ở đâu thì thấy nó hiện trước mặt.
Thân của Phật cũng có bốn pháp kỳ đặc:
Một là che chói tất cả Thanh văn, Duyên giác.
Hai là tùy nghi mà hiện thọ mạng dài ngắn chẳng đồng, thân Như Lai không tăng giảm.
Ba là thân Như Lai nơi tâm tịnh của chúng sanh, tất cả thế giới đều hiện bóng trong đó. Nghĩa là nếu chúng ta muốn thấy Phật trước hết tâm mình phải tịnh. Về điểm này Thiền không khác với pháp môn Tịnh độ. Đứng về lý tánh, tâm tịnh thì độ tịnh, tâm tịnh thì Phật Di-đà hiện. Phật Di-đà là Phật pháp thân. Kinh Di-đà nói “Khi chúng sanh niệm Phật được nhất tâm thì thấy Phật hiện thân trước mặt”. Kinh Duy-ma nói “Tùy tâm tịnh thì cõi Phật tịnh”. Nhiều người nghĩ rằng, niệm Phật khi chết được Phật rước về Cực lạc, còn tu thiền không biết chết đi về đâu? Họ không biết rằng tất cả pháp môn như trì chú, niệm Phật, tham thiền… cốt yếu điều phục cho tâm thanh tịnh.
Bốn là tất cả chúng sanh thấy Như Lai đều cho rằng Như Lai chỉ hiện thân ra vì tôi, thuyết pháp cho tôi. Thật ra thân Như Lai không phân biệt, như có một mặt trăng trên cao, dưới đất có bao nhiêu ao hồ, chậu thau… chứa nước đều thấy bóng trăng. Người đi bên đông thì thấy bóng mặt trăng bên đông, đi bên tây thì thấy bóng mặt trăng bên tây… Bóng trăng hiện nhưng mặt trăng không cố ý đi đến nơi này nơi kia, hoặc chỉ hiện riêng cho người nào. Tất cả chúng sanh đều có tánh Phật, tâm tịnh thì Phật hiện, đó là pháp thân hiện bày không ngăn ngại phân biệt.
Đức Phật có bốn phương tiện hóa độ tất cả chúng sanh được rốt ráo lợi ích như thế.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Đại Phạm thiên vương dùng chút phương tiện hiện thân khắp Đại thiên thế giới. Tất cả chúng sanh đều thấy Đại Phạm vương hiện ở trước mình. Nhưng Đại Phạm vương này chẳng phân thân, cũng không các thứ thân.
Cũng vậy, chư Phật Như Lai không có phân biệt, không hý luận, cũng chẳng phân thân, không các thứ thân. Nhưng tùy sở thích của tất cả chúng sanh mà thị hiện Phật thân, cũng vẫn chẳng nghĩ rằng hiện ngần ấy thân.
Đây là tướng thứ bảy của thân Như Lai, chư đại Bồ-tát phải thấy như vậy.
Như Lai xuất hiện, không phân biệt hý luận, không phân thân, không các thứ thân, không dụng ý hiện thân thế này, hiện thân thế kia để độ chúng sanh chỗ này chỗ nọ, nhưng tùy theo căn cơ thích hợp của chúng sanh nơi nào thì từ pháp thân liền thị hiện hóa thân đến đó mà độ. Tuy hiện thân mà không có ý phân thân, không khởi niệm hiện các thứ thân tướng.
Đây là tướng thứ bảy của Như Lai xuất hiện.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như y vương khéo biết các thứ thuốc và những chú luận, đều dùng được tất cả những thứ thuốc có ở Diêm phù-đề. Lại do năng lực của những thiện căn đời trước và sức đại minh chú làm phương tiện, nên chúng sanh được thấy y vương đều được lành mạnh. Y vương này biết mạng sắp chết, nghĩ rằng: “Sau khi ta chết, tất cả chúng sanh không nơi nương dựa. Nay ta phải nên vì họ mà hiện phương tiện.” Lúc đó y vương chế thuốc thoa thân mình dùng sức minh chú gia trì, nên dầu đã chết mà thân chẳng rã, chẳng héo, chẳng khô, cử chỉ nhìn nghe không khác lúc còn sống, phàm có chữa trị đều được lành mạnh.
Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác Vô thượng y vương, trải qua vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp tu luyện pháp dược đã được thành tựu, tu học tất cả phương tiện thiện xảo đại minh chủ lực đều được viên mãn đến bỉ ngạn. Khéo trừ diệt được tất cả bệnh phiền não của chúng sanh và trụ thọ mạng trải qua vô lượng kiếp. Thân Phật thanh tịnh không tư lự, không động dụng, tất cả Phật sự không hề thôi nghỉ. Chúng sanh được thấy, các bệnh phiền não đều được tiêu diệt.
Đây là tướng thứ tám của thân Như Lai, chư đại Bồ-tát phải thấy như vậy.
Tướng thứ tám của Như Lai xuất hiện là tướng gì?
Tức là tướng thọ mạng vô lượng vô biên. Chúng sanh nào thấy được tướng thọ mạng đó đều hết phiền não, đều dứt khổ. Vì pháp thân bất sanh bất diệt nên thọ mạng và ánh sáng vô lượng, chúng sanh nhận pháp thân thì cũng được thọ mạng và ánh sáng vô lượng. Trong kinh Di-đà, đức Phật Di-đà được định nghĩa là Vô lượng thọ, Vô lượng quang, ngài cũng chính là pháp thân bất sanh bất diệt, là ánh sáng trùm khắp.
Pháp thân có đầy đủ diệu dụng, thị hiện báo thân và hóa thân có tâm quang vô lượng. Khi nói về lý niệm Phật thì niệm Phật tức là niệm tâm, niệm tâm tức là niệm Phật. Người tu thiền chỉ không theo vọng tưởng để trở về tánh giác bất sanh bất diệt, đó cũng chính là niệm Phật. Tất cả các pháp tu tuy phương tiện có khác nhưng trở về chỗ cứu cánh không hai. Phật pháp bình đẳng, pháp môn nào cũng trở về chỗ chính yếu, chỉ vì người truyền bá căn cứ vào sự tướng mà chỉ dạy nên có sai biệt.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như đại hải có châu đại ma-ni tên là Tạng Tỳ-lô-giá-na hợp tất cả quang minh. Nếu có chúng sanh nào chạm phải quang minh của châu này thời đồng một màu với bảo châu. Nếu ai được thấy châu này thời mắt được thanh tịnh. Tùy quang minh này chiếu đến chỗ nào thời mưa ma-ni bảo tên là an lạc, làm cho chúng sanh khỏi khổ và được vừa ý.
Chư Phật tử! Thân của chư Như Lai cũng như vậy, là đại bảo tụ, là tạng đại trí tuệ tất cả công đức. Nếu có chúng sanh nào chạm phải quang minh của thân Phật thời đồng màu với thân Phật. Nếu ai được thấy thân Phật thời được pháp nhãn thanh tịnh. Tùy chỗ nào mà quang minh của thân Phật chiếu đến đều làm cho các chúng sanh khỏi khổ bần cùng, nhẫn đến đầy đủ sự vui Phật Bồ-đề.
Chư Phật tử! Như Lai pháp thân không phân biệt, cũng không hý luận mà hay vì khắp tất cả chúng sanh làm Phật sự lớn.
Đây là tướng thứ chín của thân Như Lai, chư đại Bồ-tát phải thấy như vậy.
Tướng thứ chín của Như Lai xuất hiện. Tôi dẫn chuyện ngài Huệ Hải tham vấn Mã Tổ. Tổ hỏi: “Đến cầu việc gì?” Ngài đáp: “Đến cầu Phật pháp.” Tổ bảo: “Kho báu nhà mình chẳng đoái hoài, bỏ nhà chạy đi tìm cái gì?” Huệ Hải thưa: “Cái gì là kho báu của Huệ Hải?” Tổ bảo: “Chính nay ngươi hỏi ta, là kho báu của ngươi, đầy đủ tất cả không thiếu thốn.” Ngay câu này, ngài liền nhận ra kho báu của mình, dùng hoài không hết. rizna tanla Kho báu mà Mã Tổ chỉ cho ngài Huệ Hải có đúng với đoạn kinh này hay không? Đây nói thân Như Lai là đại bảo tụ, là đại kho tàng trí tuệ đủ tất cả công đức. Nếu có chúng sanh nào chạm phải quang minh của thân Phật, thời đồng màu với thân Phật, nếu ai được thấy thân Phật thời được pháp nhãn thanh tịnh… Tất cả chúng sanh thấy thân Phật thì được khỏi khổ bần cùng, nhẫn đến đầy đủ sự vui giác ngộ. Đó là được một kho báu lớn. Ngài Huệ Hải nhận ra được rồi, từ đó về sau không còn thiếu thốn nữa.
Bàn Lối hiển bày khó khăn, gút mắc của các thiền sư đều là chỉ những điều trong kinh đã dạy, không nói gì mới mẻ. Chúng ta nhận được ý đó cùng với ý này không khác, đều nói về pháp thân sẵn có, nhận ra được thì no đủ không còn nghèo khổ thiếu thốn. Kinh này dùng hình ảnh ai chạm tới quang minh đó thì sẽ đồng màu với thân Phật, nghĩa là nhận ra pháp thân thì đồng với chư Phật, nên nói là đồng màu với thân Phật. Nhận ra được pháp thân thì không còn thấy mình bần cùng, vì đó là một kho tàng vô tận. Chứng Đạo Ca nói ông thầy nghèo mặc áo vá nhưng bên trong có hạt châu vô giá, hạt châu đó là chỉ cho pháp thân Như Lai. Người nhận được châu này vì chúng sanh làm lợi ích lớn. Bồ-tát thấy pháp thân Phật cũng được đầy đủ những công đức như vậy.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như đại hải có đại như ý ma-ni bảo vương tên là Tạng trang nghiêm tất cả thế gian, thành tựu đầy đủ trăm vạn công đức. Tùy bảo vương này ở chỗ nào thời làm cho các chúng sanh tai hoạn tiêu trừ, sở nguyện đầy đủ. Nhưng chẳng phải chúng sanh ít phước mà được thấy như ý bảo vương này.
Cũng vậy, thân Như Lai như ý bảo vương tên là Hay làm cho tất cả chúng sanh đều được hoan hỷ. Nếu có ai thấy thân Như Lai, nghe danh hiệu Như Lai, khen công đức Như Lai, thời đều làm cho thoát hẳn khổ hoạn sanh tử. Giả sử tất cả thế giới, tất cả chúng sanh đồng thời chuyên tâm muốn thấy đức Như Lai, đều làm cho được thấy, sở nguyện được đầy đủ.
Chư Phật tử! Chẳng phải chúng sanh ít phước đức mà thấy được thân Như Lai, chỉ trừ thần lực tự tại của Phật gia hộ cho kẻ đáng được điều phục. Nếu có chúng sanh nhân thấy thân Phật bèn gieo căn lành nhẫn đến thành thục, vì thành thục nên mới khiến thấy thân Như Lai.
Đây là tướng thứ mười của thân Như Lai, chư đại Bồ-tát phải thấy như vậy.
Tướng thứ mười của Như Lai xuất hiện, có công năng khiến chúng sanh nhìn thấy thân Phật đều được toại nguyện. Đó là Như Ý bảo vương, tức là hạt châu như ý muốn gì được nấy. Người nào thấy thân Phật, nghe danh hiệu Phật thì liền thoát hẳn luân hồi sanh tử. Chúng ta không nhận ra pháp thân, chịu luân hồi lăn lộn trong sanh tử, vì chỉ biết có thể chất này là mình, ngoài ra không thấy gì khác. Khi nhận được pháp thân, nhìn lại thể chất này chẳng khác hòn bọt trong biển cả, hoa đốm giữa hư không chẳng nghĩa lý gì. Thức tỉnh như vậy mới thoát luân hồi sanh tử, cố gắng chuyên tu đến nơi đến chốn.
Chư Phật tử! Chẳng phải chúng sanh ít phước đức mà thấy được thân Như Lai, chỉ trừ thần lực tự tại của Phật gia hộ cho kẻ đáng được điều phục.
Chúng sanh ít phước không thấy được thân Như Lai, chỉ trừ người được Phật gia hộ, đáng được điều phục. Cùng một ý này, kinh Di-đà nói không phải do chút ít phước đức nhân duyên mà được sanh về cõi kia. Nghĩa là muốn được về Tịnh độ, được thấy Phật Di-đà thì phải gieo trồng nhân duyên phước đức đầy đủ. Đây nói thần lực của Phật gia hộ cho chúng sanh được thấy thân Phật, do con do công đức đầy đủ thì cảm nhận được ánh sáng trí tuệ, thấy pháp thân hiện tiền.
Nếu có chúng sanh nhân thấy thân Phật bèn gieo căn lành nhẫn đến thành thục, vì thành thục nên mới khiến thấy thân Như Lai.
Do căn lành thành thục nên mới thấy được thân Như Lai, tức là thấy pháp thân trọn vẹn. Đây là tướng thứ mười của thân Như Lai.
Do vì tâm vô lượng khắp mười phương vậy. Vì sở hành vô ngại như hư không vậy. Vì vào khắp pháp giới vậy. Vì trụ chân thật tế vậy.
Sở dĩ Phật có diệu dụng vô tận không thể tính kể là do tâm vô lượng của Phật trùm khắp mười phương. Pháp thân không có nơi chốn nên vào khắp pháp giới, pháp thân bất sanh bất diệt chân thật nên gọi là chân thật tế.
Vì vô sanh vô diệt vậy. Vì bình đẳng trụ tam thế vậy. Vì lìa hẳn tất cả phân biệt vậy. Vì an trụ thệ nguyện tột hết thuở vị lai vậy. Vì nghiêm tịnh tất cả thế giới vậy. Vì trang nghiêm mỗi mỗi thân Phật vậy.
Tóm lược những lý do mà thân Phật có lợi ích vô lượng, đây là quả chân thật của tâm rộng lớn bình đẳng không phân biệt. Nhân rộng lớn nên quả không ngằn mé, tu tập nhân này để thệ nguyện tột mé vị lai không chấm dứt. Tuy phát nguyện vì chúng sanh, vì trang nghiêm thế giới, nhưng tất cả đều từ nơi chính bản tâm của mình. Dứt sạch vọng tưởng thì tất nhiên tất cả thế giới đều thanh tịnh, do đó pháp thân viên mãn đầy khắp không ngằn mé.
Sau phần này Bồ-tát Phổ Hiền nói kệ lặp lại ý nghĩa của mười thân tướng Như Lai xuất hiện, mỗi thân tướng có công đức diệu dụng làm lợi ích chúng sanh và thế giới khắp mười phương. Tư tưởng Đại thừa là hướng đến sự an lạc giải thoát không cùng tận, tu tập Bồ tát hạnh là hướng đến điều này nên trong kinh luôn nhắc đi nhắc lại.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Ví như hư không khắp mười phương
Hoặc sắc phi sắc, hữu phi hữu
Tam thế chúng sanh thân, quốc độ
Ở khắp không biên tế như vậy.
Cũng thế, chân thân của chư Phật
Tất cả pháp giới đều khắp cả
Chẳng thể thấy được, chẳng lấy được
Vì độ chúng sanh mà hiện thân.
Ví như hư không chẳng lấy được
Khiến khắp chúng sanh tạo những nghiệp
Hư không chẳng nghĩ ta làm gì?
Ta làm thế nào, làm vì ai?
Thân nghiệp của Phật cũng như vậy
Khiến khắp quần sanh tu pháp lành
Như Lai chưa từng có phân biệt
Rằng ta làm những việc nơi kia.
Ví như mặt nhật mọc thế gian
Ánh sáng phá tất cả tối tăm
Núi, cây, ao sen, đất, các vật
Tất cả mọi loài đều lợi ích.
Chư Phật xuất hiện cũng như vậy
Sanh trưởng hạnh lành cho nhân thiên
Trừ hẳn si tối được trí sáng
Hằng thọ tôn vinh tất cả vui.
Ví như mặt nhật lúc xuất hiện
Trước chiếu núi cao kế các núi
Sau chiếu cao nguyên và đại địa
Mà mặt nhật vẫn không phân biệt.
Thiện Thệ quang minh cũng như vậy
Trước chiếu Bồ-tát, kế Duyên giác
Sau chiếu Thanh văn và chúng sanh
Mà Phật bản lai không động niệm.
Như sanh manh chẳng thấy mặt trời
Ánh sáng cũng lợi ích cho họ
Khiến biết thời tiết thọ uống ăn
Lìa hẳn tai hoạn thân an ổn.
Bất tín chúng sanh chẳng thấy Phật
Phật cũng vì họ làm lợi ích
Nghe danh nhẫn đến chạm quang minh
Nhân đây nhẫn đến được Bồ-đề.
Ví như tịnh nguyệt tại hư không
Hay chói tinh tú, hiện tròn khuyết
Tất cả nước trong đều hiện hình
Ai cũng xem thấy ở trước mình.
Như Lai quang minh cũng như vậy
Hay che Nhị thừa, hiện lâu mau
Hiện khắp trong tâm của nhân thiên
Ai ai cũng nói Phật trước mình.
Thí như Phạm vương ở cung mình
Hiện khắp nơi trong cõi Đại thiên
Tất cả nhân thiên đều được thấy
Thật chẳng phân thân đến nơi kia.
Chư Phật hiện thân cũng như vậy
Tất cả mười phương đều khắp cả
Thân Phật vô số chẳng kể được
Cũng chẳng phân thân chẳng phân biệt.
Như có Y vương giỏi phương thuật
Nếu ai được thấy bệnh đều lành
Y vương dầu chết, thuốc thoa thân
Khiến thân hành động như lúc sống.
Vô thượng Y vương cũng như vậy
Đầy đủ phương tiện Nhất thiết trí
Do diệu hạnh xưa hiện Phật thân
Chúng sanh được thấy phiền não diệt.
Ví như trong biển có bảo vương
Khắp pháp vô lượng những quang minh
Chúng sanh chạm đến đồng màu bảo
Nếu ai được thấy mắt thanh tịnh.
Vô thượng Y vương cũng như vậy
Chạm quang minh Phật tất đồng màu
Nếu ai được thấy thành ngũ nhãn
Phá những mê tối trụ Phật địa.
Ví như ma-ni như ý bảo
Tùy có người cầu đều đầy đủ
Chúng sanh kém phước chẳng thấy được
Chẳng phải bảo vương có phân biệt.
Thiện Thệ bảo vương cũng như vậy
Người cầu đều toại theo sở thích
Chúng sanh không tin chẳng thấy Phật
Chẳng phải Thiện Thệ quên bỏ họ.
Bấy giờ Phổ Hiền đại Bồ-tát lại nói với chư Bồ-tát:
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết như thế nào về âm thanh của đức Như Lai Đẳng chánh giác?
Đại Bồ-tát phải biết âm thanh của đức Như Lai là đến khắp tất cả, khắp đến vô lượng âm thanh.
Âm thanh của Phật đến khắp tất cả chúng sanh, khắp vô lượng âm thanh của chúng sanh. Chúng sanh nương âm thanh mà được tu tập giải thoát nên âm thanh Phật đến khắp vô lượng khiến tất cả loài đều được nghe hiểu.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai, tùy tâm sở thính của thính giả đều làm cho họ hoan hỷ, vì thuyết pháp minh liễu.
Âm thanh của Phật là lời giáo hóa của Phật, tùy theo sở thích của tâm chúng sanh. Chúng sanh thích cái gì thì Phật tùy theo đó giảng giải cho họ vui vẻ hiểu rõ.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai, tùy tín giải của thính giả đều làm cho họ hoan hỷ, vì tâm được thanh lương.
Trên là tùy tâm sở thích, đây là tùy tâm tín giải tức là tùy tâm tin hiểu. Chúng sanh tin hiểu thế nào thì đức Phật giải thích cho họ được hoan hỷ và tâm được thanh lương.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai giáo hóa chẳng lỗi thời, vì người đáng được nghe thời đều được nghe.
Lời Phật dạy luôn luôn hợp căn cơ và đúng thời. Những người có duyên thì đều được nghe.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không sanh diệt, vì như vang ứng tiếng.
Âm thanh của Phật không sanh diệt, vì như vang ứng tiếng. Như chúng ta đứng trước hang trống la một tiếng lớn, trong hang có tiếng dội lại, tiếng dội đó sanh diệt hay là không sanh diệt? Nó sanh diệt vì có tiếng có vang, hết tiếng, không vang. Tại sao đây nói là không sanh diệt? Chúng ta cho tiếng là thật, nhưng âm vang dội lại có thật hay không? Đã nói như vang như bóng thì không thật, đã không thật thì nói gì sanh diệt. Đó là ý thứ nhất.
Ý thứ hai, chúng ta nghe tiếng mình thốt ra thì cho đó là thật, bởi cho là thật nên thấy có thật sanh thật diệt. Đức Phật thấy tất cả pháp hiện hữu từ hành động, ngôn ngữ… đều huyễn hóa, tùy duyên không có thật, không thật nên không sanh diệt.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không chủ, vì do tu tập tất cả công hạnh phát khởi.
Không chủ tức là không có ngã. Phật là bậc vô ngã, âm thanh của ngài không có chủ tể riêng. Âm thanh ấy phát khởi do tu tập công đức viên mãn nhiều đời, tùy duyên ứng hiện. Vì vậy nói âm thanh Như Lai không chủ.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai rất sâu, vì khó lường được.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không tà vạy, vì do pháp giới phát sanh.
Tà vạy là thiên lệch. Lời đức Phật không tà vạy vì đều thể theo pháp giới tánh mà phát sanh. Như có người tự xưng tôi ngay thẳng, chân chánh, nhưng sự ngay thẳng chân chánh ấy còn tùy theo tâm niệm tập quán của địa phương, nên cũng chưa thật là chân chánh. Chân chánh gốc từ chân tâm phát ra mới thật là chân chánh, nên đây dùng chữ vì do pháp giới phát sanh. Pháp giới tức là chân tâm.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không đoạn tuyệt, vì vào khắp pháp giới.
Âm thanh của Phật từ pháp giới mà sanh, trùm khắp pháp giới, pháp giới bất sanh bất diệt nên âm thanh ấy cũng bất sanh bất diệt.
Phải biết âm thanh của đức Như Lai không biến đổi, vì đã đến nơi rốt ráo.
Tất cả ngôn giáo của đức Phật không biến đổi, nghĩa là giáo lý do âm thanh Phật nói ra không biến đổi vì chỉ dạy chân lý cứu cánh. Chân lý cứu cánh thì không còn sai sót, không nằm trong giới hạn hữu vi nên gọi là không biến đổi.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết âm thanh của đức Như Lai chẳng phải lượng, chẳng phải vô lượng, chẳng phải chủ, chẳng phải không chủ, chẳng phải thị giáo, chẳng phải không thị giáo.
Âm thanh của Phật không mắc kẹt hai bên, hữu lượng vô lượng, hữu chủ vô chủ, hữu giáo vô giáo, thẳng vào Đệ nhất nghĩa đế.
Ví như thế giới lúc sắp hoại, không chủ không làm, tự nhiên phát ra bốn thứ âm thanh:
Một là âm thanh nói: “Mọi người nên biết Sơ thiền an lạc, rời những lỗi dục nhiễm, vượt khỏi cõi Dục.” Chúng sanh nghe rồi tự nhiên được thành tựu Sơ thiền, bỏ thân cõi Dục sanh lên Phạm thiên.
Hai là âm thanh nói: “Mọi người nên biết Nhị thiền an lạc, không giác không quán, vượt hơn Phạm thiên.” Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Nhị thiền, bỏ thân Phạm thiên sanh lên Quang Âm thiên.
Ba là âm thanh nói: “Mọi người nên biết Tam thiền an lạc, không lỗi lầm, vượt hơn Quang Âm thiên” Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Tam thiền, bỏ thân Quang Âm thiên sanh lên Biến Tịnh thiên.
Bốn là âm thanh nói: “Mọi người nên biết Tứ thiền tịch tịnh hơn Biến Tịnh thiên.” Chúng sanh nghe xong tự nhiên được thành tựu Tứ thiền, bỏ Biến Tịnh thiên sanh lên Quảng Quả thiên. thể có
Bốn thứ âm thanh trên đây không chủ không làm, chỉ do sức thiện nghiệp của chúng sanh mà phát sanh.
Thí dụ về âm thanh không chủ không tạo tác, phát sanh tự nhiên do nghiệp thiện của chúng sanh thành thục mà được như vậy.
Nói bốn thí dụ nhưng thật ra là một. Khi thế giới sắp hoại, chúng sanh trên thế giới này nghe có âm thanh nói rằng: cõi Dục ô nhiễm cần phải lên cõi Sơ thiền. Nghe rồi chúng sanh tự nhiên bỏ thân cõi Dục sanh lên Phạm thiên, cứ như vậy lên đến Quảng Quả thiên. Quảng Quả thiên là cõi trời Tứ thiền, cõi trời này không bị lửa nước làm tan hoại. Đó là duyên cớ khiến chúng sanh thoát khỏi tai họa ở cõi Dục khi họ sanh lên cõi trời Quảng Quả thiên. Các chúng sanh ấy do thiện nghiệp, nên khiến phát ra những âm thanh làm thành tựu kết quả lên các cõi trời, không phải trong âm thanh đó có chủ, có người làm.
Cũng vậy âm thanh của đức Như Lai, không chủ không làm, không có phân biệt, chẳng phải nhập chẳng phải xuất, chỉ từ pháp lực công đức của Như Lai phát sanh bốn thứ âm thanh quảng đại;
Một là âm thanh nói: “Đại chúng nên biết tất cả hành pháp đều là khổ. Những là địa ngục là khổ, súc sanh là khổ, ngạ quỷ là khổ, không phước đức là khổ, chấp ngã ngã sở là khổ, tạo những ác hạnh là khổ. Muốn sanh cõi trời hay nhân gian phải gieo căn lành sanh trong nhân thiên rời khỏi các chỗ nạn.” Chúng sanh nghe xong bỏ lìa điên đảo tu những hạnh lành, rời khỏi những chỗ nạn mà sanh trong nhân thiên.
Âm thanh Như Lai có bốn thứ quảng đại. Một là chỉ dạy các hành pháp là khổ, hàng phàm phu biết các khổ rồi cố gắng tu thiện, rời khổ được an lạc.
Hai là âm thanh nói: “Đại chúng nên biết tất cả hành pháp tràn đầy những khổ như hòn sắt nóng, hành pháp vô thường là pháp diệt mất. Niết-bàn tịch tịnh vô vi an lạc lìa xa khốn khổ, tiêu sạch nhiệt não.” Chúng sanh nghe xong siêng tu pháp lành, nơi Thanh văn thừa được tùy thuận âm thanh nhẫn.
axit Hai là chỉ dạy Thanh văn thừa nói tất cả hành pháp khổ não, vô thường diệt mất. Hành pháp là những pháp do hành động tạo tác của thân khẩu ý… Tất cả hành động của thân, khẩu, ý đều vô thường sanh diệt, chỉ có Niết-bàn tịch tịnh, vô vi an lạc. Hàng Thanh văn nghe xong siêng tu dứt bặt tất cả những pháp hành của thân, khẩu, ý, được quả vị lậu tận A-la-hán, chứng Niết-bàn tịch tịnh.
Ba là âm thanh nói: “Đại chúng nên biết Thanh văn thừa do lời người khác mà được tỏ ngộ, trí tuệ hẹp kém. Lại có Độc giác thừa tỏ ngộ chẳng do thầy, đại chúng nên học.” Những người thích thắng đạo nghe lời này xong liền bỏ Thanh văn thừa mà tu Độc giác thừa.
Ba là chỉ dạy Độc giác thừa. Thanh văn thừa do âm thanh mà ngộ đạo, còn có người chỉ dạy, nên đây nói là trí tuệ kém. Hàng Độc giác ra đời không gặp Phật, chỉ tự mình ngồi ở chỗ vắng suy tư và lãnh hội yếu chỉ nhân duyên, niềm vui mạnh hơn, trí tuệ thù thắng hơn, đời đời không quên. Vì thế, Phật nói hàng Duyên giác thù thắng.
Bốn là âm thanh nói: “Đại chúng nên biết hơn hàng Nhị thừa còn có thắng đạo gọi là Đại thừa, là chỗ tu hành của Bồ-tát thuận sáu môn ba-la-mật, chẳng dứt hạnh Bồ tát, chẳng bỏ tâm Bồ-đề, ở vô lượng sanh tử mà chẳng mỏi nhàm, hơn hàng Nhị thừa, gọi là Đại thừa, là Đệ nhất thừa, là Thắng thừa, là Tối thắng thừa, là Thượng thừa, là Vô thượng thừa, là thừa lợi ích tất cả chúng sanh.” Nếu có chúng sanh nào lòng tin hiểu rộng lớn, căn khí mạnh lẹ, đời trước gieo căn lành, được thần lực của đức Như Lai gia hộ, có chí nguyện thù thắng mong cầu Phật quả, nghe lời này xong liền phát tâm Bồ-đề.
Bốn là chỉ dạy Bồ-tát thừa. Nhị thừa tức là Thanh văn và Độc giác, Bồ-tát thừa cao hơn Nhị thừa, làm lợi ích rộng lớn tất cả chúng sanh. Những chúng sanh có duyên lành lớn, nghe âm thanh này liền phát tâm Đại thừa.
Chư Phật tử! Âm thanh của đức Như Lai chẳng từ thân phát ra, chẳng từ tâm phát ra mà có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.
Đây là tướng thứ nhất của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Âm thanh của Phật khác hơn chúng ta, chẳng phải phát ra từ thân sanh diệt. Âm thanh của chúng ta do vọng tưởng suy nghĩ rồi phát ra ngôn ngữ nơi miệng. Vọng tưởng là tâm hư giả, thân là tứ đại sanh diệt, hai pháp đó đều hư giả nên âm thanh cũng hư hư giả. Âm thanh đức Phật khởi lên từ tâm chân thật vô phân biệt, không phải từ tâm hư giả. Như Lai dùng pháp thân làm thân nên không có thân. Âm thanh đó tùy nghiệp chúng sanh mà ứng hiện giáo hóa, chúng sanh căn cơ thế nào thì Phật ứng hóa âm thanh thế ấy để chỉ dạy.
Đó là tướng thứ nhất của âm thanh đức Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như vang, do hang núi và âm thanh mà phát ra không có hình trạng, chẳng ngó thấy được, cũng không phân biệt mà có thể theo dõi tất cả ngữ ngôn.
Cũng vậy, âm thanh của đức Như Lai không có hình trạng, chẳng thấy được, chẳng phải có phương sở, chẳng phải không phương sở, chỉ tùy nơi duyên dục giải của chúng sanh mà phát ra. Tánh âm thanh này rốt ráo, không nói không bày, chẳng tuyên thuyết được.
Đây là tướng thứ hai của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Âm thanh của đức Phật tùy theo tất cả tâm trạng của chúng sanh, không có tánh âm thanh, rốt ráo không nói, không bày, chẳng tuyên thuyết được. Âm thanh của Phật tùy duyên ứng hiện, tánh của âm thanh là pháp thân lặng lẽ, an nhiên bất động, nên không có không có tuyên thuyết.
Đó là tướng thứ hai của âm thanh đức Phật.
Lại nữa, chư Phật tử. Ví như chư thiên có pháp cổ lớn tên là Giác Ngộ. Lúc chư thiên tử nếu ham vui phóng dật, thời pháp cổ nơi hư không phát ra tiếng bảo chư thiên tử đó rằng: “Chư Thiên tử nên biết tất cả dục lạc thảy đều vô thường hư vọng điên đảo giây lát đã biến hoại, chỉ kẻ cuồng ngu mới tham luyến. Chư Thiên tử chớ phóng dật, nếu phóng dật sau sẽ đọa ác thú ăn năn đã muộn.” Chư Thiên tử nghe âm thanh này lòng rất kinh hãi, liền bỏ những sự dục lạc trong Thiên cung, cùng nhau đến chỗ Thiên vương cầu pháp tu hành.
Tiếng của thiên cổ không chủ không làm, không khởi không diệt mà có thể lợi ích vô lượng chúng sanh.
Phải biết đức Như Lai cũng như vậy. Vì muốn giác ngộ chúng sanh phóng dật mà phát ra vô lượng diệu pháp âm thanh. Những là tiếng vô trước, tiếng chẳng phóng dật, tiếng vô thường, tiếng khổ, tiếng vô ngã, tiếng bất tịnh, tiếng tịch diệt, tiếng Niết-bàn, tiếng vô lượng tự nhiên trí, tiếng Bồ-tát hạnh bất khả hoại, tiếng trí địa vô công dụng của Như Lai đến tất cả chỗ. Dùng âm thanh này khắp trong pháp giới để khai ngộ.
Vô số chúng sanh được nghe âm thanh này đều rất hoan hỷ siêng tu pháp lành. Đều ở nơi tự thừa mà cầu xuất ly. Những là hoặc tu Thanh văn thừa, hoặc tu Độc giác thừa, hoặc tu Bồ-tát Vô thượng Đại thừa. Nhưng âm thanh của Như Lai vẫn không trụ phương sở, không có ngôn thuyết.
Đây là tướng thứ ba của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tiếng trống của chư thiên không tâm và không ai tác động nhưng tùy duyên nghiệp của chư thiên liền ứng ra những tiếng nhắc nhở. Dùng thí dụ nói thể chân tâm vô phân biệt, không nghĩ bàn, tùy theo căn lành của chúng sanh, diễn ra vô lượng âm thanh để dạy dỗ, hướng dẫn mọi người biết pháp tu hành trở về giác ngộ. Âm thanh của Phật không có chỗ trụ vì thuyết mà không có thật thuyết. Đây là cảnh giới chúng sanh chưa đạt đến nên diễn bày không hết, chỉ khéo dùng thí dụ cái trống của chư thiên, thanh này.
Khi đức Phật giác ngộ thấu rõ đạo lý trong vũ trụ, vọng tưởng suy nghĩ không còn, tùy cơ ứng dụng vô ngại. Ngài phát ra vô lượng ngôn thuyết giáo hóa chúng sanh không cần dụng công suy nghĩ. Như thế khi lặng hết vọng tưởng đừng nghĩ là không còn gì, chính lúc đó mới được ứng dụng vô ngại. Khi còn vọng tưởng suy tư hạn cuộc thì suy nghĩ đến đâu nói đến đó, không phải diệu dụng tự nhiên.
Chúng ta tu tập lâu, tâm được yên, bỗng nhiên có người đến hỏi đạo thì dù lúc đó không nghĩ gì hết mà cũng đáp ứng thích hợp. Đó là điều đặc biệt, khi do suy nghĩ mà đáp là lượng của trí ngăn ngại, còn không suy nghĩ mà đáp là ứng dụng vô ngại của tâm vô phân biệt. Vì thế đây dùng thí dụ cái trống tên Giác Ngộ, khi thấy chư thiên buông lung liền ứng ra lời nhắc nhở. Hiểu được điều này, chúng ta tinh tấn hơn trong sự tu.
Phật tuy nói đủ pháp môn giáo hóa tùy theo căn cơ chúng sanh, nhưng âm thanh Như Lai không trụ phương sở, không có ngôn thuyết. Đây là tướng thứ ba của âm thanh Phật.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Tự Tại thiên vương có thiên thể nữ tên là Thiện Khẩu. Nơi miệng thiên nữ này phát ra một âm thanh hay hòa cùng với trăm ngàn thứ nhạc, trong mỗi thứ nhạc lại có trăm ngàn âm thanh sai khác.
Chư Phật tử! Thiên nữ Thiện Khẩu từ nơi miệng phát ra một âm thanh mà thành vô lượng âm thanh như vậy.
Phải biết đức Như Lai cũng thế, từ trong một âm thanh phát ra vô lượng âm thanh, tùy theo tâm sở thích sai khác của chúng sanh đều đến khắp, đều làm cho được hiểu.
Đây là tướng thứ tư của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Đây dùng thí dụ thiên nữ Thiện Khẩu chỉ có một âm thanh mà hòa được với trăm thứ nhạc. Đức Phật cũng vậy, chỉ một âm thanh mà phát ra vô lượng ngôn ngữ tùy tâm sở thích của chúng sanh. Cách giải thích thứ nhất, một âm thanh là Nhất Phật thừa, không hai không ba, vì chúng sanh chưa nhận ra nên tùy phương tiện khai diễn. Cách giải thích thứ hai, một âm thanh là chỉ một tâm vô phân biệt mà phát ra vô lượng ngôn thuyết giáo hóa chúng sanh.
Đây là tướng thứ tư của âm thanh Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Đại Phạm thiên vương trụ nơi Phạm cung xuất Phạm âm thanh, tất cả Phạm chúng đều được nghe, mà âm thanh đó chẳng ra ngoài Phạm chúng. Chư Phạm chúng mỗi mỗi đều tự nghĩ Đại Phạm thiên vương riêng nói với tôi.
Diệu âm của đức Như Lai cũng như vậy, chúng hội trong đạo tràng đều được nghe, mà âm thanh đó chẳng ra ngoài chúng hội. Vì người căn chưa thành thục thời chẳng nên nghe. Những người được nghe, mỗi mỗi đều tự nghĩ: Đức Như Lai Thế Tôn riêng vì tôi mà nói.
Đây dùng thí dụ Phạm âm của trời Phạm thiên. Đối với chúng Phạm thiên, khi vua trời nói ra thì mỗi người nghe tự nghĩ là Phạm vương nói riêng với mình.
Phật cũng vậy, khi ngài phát ra diệu âm, chúng hội đều nghe, âm thanh ấy chỉ ở trong phạm vi chúng hội. Những người căn cơ chưa thành thục không thể nghe vì không được lợi ích. Những người được nghe tự cảm thấy như Phật chỉ nói riêng với họ.
Chư Phật tử! Âm thanh của đức Như Lai không xuất không trụ, mà có thể thành tựu tất cả Phật sự.
Đây là tướng thứ năm của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng thứ năm của âm thanh này, chúng ta tu được chưa? Như khi tôi giảng dạy, âm thanh của tôi không vượt ra ngoài hội chúng, nhưng có người ghi âm rồi sang chép qua đĩa gửi đi các nơi. Âm thanh của tôi đến với đại chúng là nhờ những phương tiện của khoa học, không phải tôi giảng trực tiếp, nhưng mỗi người hội chúng thấy như tôi đang nói với họ. Khoa học thuộc phạm vi ý thức mà còn có những khả năng như vậy, huống là diệu dụng của trí tuệ Phật.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như nước đồng một vị, tùy đồ đựng khác nhau nên nước cũng sai khác. Nước không lo nghĩ cũng không phân biệt.
Cũng vậy, ngôn âm của đức Như Lai chỉ có một vị giải thoát. Tùy theo tâm sai khác của chúng sanh nên có vô lượng sai khác. Nhưng vẫn không niệm lự cũng không phân biệt.
Đây là tướng thứ sáu của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Nước chỉ có một vị, tùy theo đồ đựng mà có sai khác. Âm thanh của Như Lai chỉ có một vị là vị giải thoát, vì tâm chúng sanh sai biệt nên Phật thuyết ra vô lượng ngôn âm sai biệt. Khi thuyết vô lượng ngôn âm sai biệt, ngài không có tâm niệm lự, tức là không suy nghĩ tính toán, phân biệt. Đây là tướng thứ sáu của âm thanh Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như A-na-bà-đạt-đa Long vương nổi mây dầy mưa khắp Diêm phù đề. Cây trái lúa mạ đều được sanh trưởng, sông rạch ao suối đều tràn đầy. Nước mưa này chẳng từ thân Long vương chảy ra, mà có thể thành tựu những việc lợi ích như trên.
Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác nổi mây đại bi khắp mười phương cõi, khắp rưới pháp cam lồ vô thượng, khiến chúng sanh đều hoan hỷ, thêm lớn pháp lành, viên mãn các thừa. Âm thanh của Như Lai chẳng từ ngoài lại, chẳng từ trong ra, mà có thể lợi ích tất cả chúng sanh.
Đây là tướng thứ bảy của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Âm thanh của Như Lai không từ ngoài lại, chẳng từ trong ra, âm thanh ấy từ đâu mà có? Từ pháp thân lưu xuất, hay từ duyên nghiệp của chúng sanh mà khởi lên phương tiện. Duyên nghiệp của chúng sanh như huyễn nên âm thanh cũng như huyễn, tùy căn cơ chúng sanh mà phát ra âm thanh thích hợp. Âm thanh không nơi chốn, không thật có nhưng khắp làm lợi ích vô lượng chúng sanh.
Đây là tướng thứ bảy của âm thanh Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ma-na-tư Long vương muốn làm mưa nhưng chưa tiện mưa liền. Trước kéo mây trùm khắp hư không ngưng đình bảy ngày, chờ các chúng sanh làm việc xong, vì đại Long vương đó có tâm từ bi chẳng muốn chúng sanh bị não loạn. Quá bảy ngày Long vương mới mưa nhỏ thấm ướt cả đại địa.
Long vương tên Ma-na-tư muốn làm mưa mà chưa tiện mưa, kéo mây xong đợi bảy ngày chờ chúng sanh làm việc xong mới mưa. Thí dụ này không biết ở xứ nào, ở đây nhiều khi mưa to lúc đang gặt lúa, không dừng lại tí nào, nói là chờ đợi làm việc xong rồi mới mưa thì rất khó tin.
Người học đạo cần nhớ, kinh có chia quyền và thật, quyền là tạm dùng những thí dụ rồi sau hợp pháp thật. Khi xem kinh chúng ta nên phân biệt, với những thí dụ đừng cố chấp, đó chỉ là nói tương tự cho người dễ hiểu, không phải là chân lý, phần hợp pháp ở sau mới là chân lý. Hiểu như vậy thì xem kinh không bị chướng ngại, như đây nói Long vương không mưa liền… đó chỉ là dụ để hợp pháp, sau mới nói đến pháp thật,
Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác sắp ban pháp vũ nhưng chưa tiện ban liền, trước nổi pháp vân thành thục chúng sanh, vì muốn lòng họ chẳng kinh sợ. Chờ lúc họ đã thành thục mới ban pháp vũ cam lồ, diễn nói pháp lành thậm thâm vi diệu, lần lần làm cho họ đầy đủ pháp vị vô thượng nhất thiết chủng trí của Như Lai.
Đây là tướng thứ tám của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Kinh Pháp Hoa đã nói rõ ý này, trước khi ban pháp nhũ thậm thâm vi diệu, Phật chuyển pháp vân đợi chúng sanh căn cơ thuần thục. Ban đầu Phật nói những pháp gốc, như mây chuyển mưa, dần dần chúng sanh hiểu hết các pháp gốc, lúc đó ngài mới nói pháp cao như mưa xối xuống. Trước có mây rồi từ từ có mưa, dụ cho Phật nói pháp từ thấp đến cao.
Đây là tướng thứ tám của âm thanh Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như trong biển có đại Long vương tên là Đại Trang Nghiêm, lúc ở trong đại hải tuôn mưa, hoặc mưa mười thứ trang nghiêm, hoặc trăm, hoặc ngàn, hoặc trăm ngàn thứ trang nghiêm nước vẫn không sai khác, chỉ do sức bất tư nghì của Long vương khiến những thứ trang nghiêm nhẫn đến có trăm ngàn vô lượng thứ sai khác.
Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác lúc vì chúng sanh thuyết pháp, hoặc dùng mười thứ âm thanh để thuyết, hoặc dùng trăm, hoặc dùng ngàn, hoặc dùng trăm ngàn, hoặc dùng tám vạn bốn ngàn âm thanh để nói tám vạn bốn ngàn hạnh. Nhẫn đến hoặc dùng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha âm thanh thuyết pháp sai khác, làm cho người nghe đều sanh lòng vui mừng. Âm thanh của Như Lai vẫn không phân biệt, chỉ do chư Phật nơi thậm thâm pháp giới viên mãn thanh tịnh hay tùy theo sở nghi của căn khí chúng sanh mà phát ra nhiều thứ ngôn âm đều làm cho hoan hỷ cả.
Đây là tướng thứ chín của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Long vương mưa trăm ngàn thứ trang nghiêm mà nước vẫn không sai khác, do sức bất tư nghì của Long vương khiến cho phát sanh vô lượng thứ trang nghiêm sai khác. Cũng vậy, giáo lý của Phật chỉ một vị không sai khác, nhưng do sức bất tư nghì của Phật thuyết ra trăm ngàn muôn thứ, dùng tám muôn bốn ngàn âm thanh để nói tám muôn bốn ngàn pháp môn. Đó gọi là tùy tâm chúng sanh ứng với sở tri lượng của họ, không phải có nhiều pháp môn như vậy.
Đây là tướng thứ chín của âm thanh Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Ta-kiệt-la Long vương muốn hiện sức đại tự tại làm lợi ích chúng sanh đều khiến vui mừng, từ tứ châu thiên hạ nhẫn đến Tha Hóa Tự Tại thiên, nổi lưới đại vẫn giăng khắp mọi nơi, đại vẫn có vô lượng sắc tướng sai khác: Hoặc màu sáng chói như vàng diêm phù đàn, như tỳ-lưu-ly, như bạch ngân, như pha lê, như mã não, như xích chân châu, như nước trong sạch, như các thứ đồ trang nghiêm, hoặc màu sáng chói như mâu-tát-la, như thắng tạng, như vô lượng hương, như vô cấu y.
Mây lớn đã giăng khắp rồi phát ra nhiều thứ điển quang đủ màu. Mây màu vàng diêm phù đàn phát ra điển quang màu lưu ly, mây màu lưu ly phát ra điển quang màu vàng, mây màu pha lê phát ra điển quang màu bạch ngân, mây màu bạch ngân phát ra điển quang màu pha lê, nhẫn đến mây màu nước trong phát ra điển quang màu các thứ đồ trang nghiêm, mây màu các thứ đồ trang nghiêm phát ra điển quang màu nước trong, mây nhiều màu phát ra điển quang một màu, mây một màu phát ra điển quang nhiều màu.
Lại trong mây lớn phát ra các thứ tiếng sấm tùy sở thích của chúng sanh đều làm cho họ hoan hỷ. Những là tiếng sấm như ca ngâm của thiên nữ, hoặc như tiếng thiên nhạc, hoặc như tiếng ca ngâm của long nữ, hoặc như tiếng ca ngâm của càn-thát-bà nữ, hoặc như tiếng ca ngâm của khẩn-na-la nữ, hoặc như tiếng đại địa chấn động, hoặc như tiếng hải triều, hoặc như tiếng gầm hét của thú vương, hoặc như tiếng chim hót lảnh lót và vô lượng thứ tiếng khác.
Đã nổi sấm rồi tiếp nổi gió mát làm cho lòng chúng sanh hoan hỷ rồi sau mới tuôn nhiều thứ mưa, làm lợi ích an lạc vô lượng chúng sanh. Từ Tha Hóa thiên đến đại địa, ở tất cả chỗ mưa chẳng đồng nhau. Ở trong đại hải thời mưa nước trong mát tên là Vô đoạn tuyệt. Ở Tha Hóa thiên thời mưa các thứ nhạc âm như tiêu, sáo… tên là Mỹ Diệu. Ở Hóa Lạc thiên thời mưa đại ma-ni bảo tên là Phóng đại quang minh. Ở Đâu-suất thiên thời mưa đồ đại trang nghiêm tên là Thủy kế. Ở Dạ ma thiên thời mưa hoa đẹp lớn tên là Chủng chủng trang nghiêm cụ.
Ở Tam Thập Tam thiên thời mưa những diệu hương tên là Duyệt ý. Ở trời Tứ Thiên Vương thời mưa thiên bảo y tên là Phú cái. Ở cung Long vương thời mưa xích chân châu tên là Dũng xuất quang minh. Ở cung A-tu-la thời mưa những vũ khí tên là Hàng phục oán địch. Ở châu Bắc Uất-đơn-việt thời mưa các thứ hoa tên là Khai phu. Ba châu kia cũng mưa như vậy, tùy theo mỗi xứ mà mưa chẳng đồng.
Dầu Ta-kiệt-la Long vương tâm bình đẳng không có bỉ thử, chỉ do chúng sanh thiện căn có khác mà mưa có sai biệt.
Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác Vô thượng Pháp vương muốn đem chánh pháp giáo hóa chúng sanh, trước giăng thân vân che khắp pháp giới, tùy theo sở thích của chúng sanh mà hiện thân chẳng đồng: Hoặc vì chúng sanh mà hiện sanh thân, hoặc hiện hóa thân, hoặc hiện lực trì thân, hoặc hiện sắc thân, hoặc hiện tướng hảo thân, hoặc hiện phước đức thân, hoặc hiện trí tuệ thân, hoặc hiện thân đủ năng lực bất khả hoại, hoặc hiện vô úy thân, hoặc vì chúng sanh mà hiện pháp giới thân.
Hiện nhiều thân như vậy để chi? Để tùy theo sở thích sai khác của chúng sanh mà thị hiện các thứ quang minh.
Đức Như Lai dùng vô lượng thân như vậy hiện khắp mười phương tất cả thế giới, tùy sở thích sai khác của chúng sanh mà thị hiện các thứ quang minh: Hoặc vì chúng sanh mà hiện quang minh tên là Vô sở bất chí, hoặc hiện quang minh tên là Vô biên quang, hoặc hiện quang minh tên là Nhập Phật bí mật pháp, hoặc hiện quang minh tên là Ảnh hiện quang, hoặc vì chúng sanh hiện quang minh tên là Chiếu diệu quang, hoặc hiện quang minh tên là Nhập vô tận đà-la-ni môn, hoặc hiện quang minh tên là Chánh niệm bất loạn, hoặc hiện quang minh tên là Cứu cánh bất hoại, hoặc hiện quang minh tên là Thuận nhập chư thú, hoặc vì chúng sanh hiện quang minh tên là Mãn tất cả nguyện đều làm cho hoan hỷ.
Đức Như Lai hiện vô lượng quang minh như vậy rồi, lại tùy tâm sở thích của chúng sanh mà phát ra vô lượng tiếng tam-muội: Những là tiếng tam-muội thiện giác trí, tiếng tam-muội xí nhiên ly cấu hải, tiếng tam-muội nhất thiết pháp tự tại, tiếng tam-muội kim cang luân, tiếng tam-muội Tu-di sơn tràng, tiếng tam-muội hải ấn, tiếng tam-muội nhật đăng, tiếng tam-muội vô tận tạng, tiếng tam-muội bất hoại giải thoát lực.
Trong thân Như Lai phát ra vô lượng tiếng tam-muội sai biệt như vậy rồi, sắp ban pháp vũ trước hiện thoại tướng khai ngộ chúng sanh. Những là từ nơi vô chướng ngại đại từ bi tâm hiện ra đại trí phong luân của Như Lai tên là Hay làm cho tất cả chúng sanh được vui thích hoan hỷ bất tư nghì. Tướng tốt lành này đã hiện thời tất cả Bồ-tát và chúng sanh, thân cùng tâm đều được thanh lương.
Sau đó từ mây đại pháp thân của Như Lai, mây đại từ bi, mây đại bất tư nghì của Như Lai ban pháp vũ quảng đại bất tư nghì, làm cho tất cả chúng sanh thân tâm đều thanh tịnh.
Đây trước dùng thí dụ, sau hợp pháp để chỉ rõ đức Phật trước khi nói pháp thì lần lượt hiện những gì? Trước tiên hiện quang minh, kế đến hiện tam-muội, rồi sau mới thuyết pháp. Quang minh là trí tuệ, tam-muội là chánh định, tuệ và định viên mãn rồi hiện tướng lành cho chúng sanh thân tâm đều được thanh lương. Sau đó từ pháp thân Như Lai dấy lên mây đại từ bi, mây đại bất tư nghì mà ban pháp vũ quảng đại.
Tất cả pháp Phật đều lưu xuất từ biển pháp thân, giáo pháp ấy là giáo pháp chân thật. Nên đây nói rõ trước tiên thì hiện mây đại pháp thân của Như Lai, tức là bắt nguồn từ pháp thân khởi lòng đại bi thương chúng sanh, rồi tùy theo căn cơ trình độ mà diễn nói pháp chân thật giáo hóa chúng sanh.
Những là vì Bồ-tát ngồi đạo tràng Bồ-đề ban đại pháp vũ tên là Pháp giới vô sai biệt.
Vì tối hậu thân Bồ-tát ban đại pháp vũ tên Bồ-tát du hý mật giáo của Như Lai.
Vì nhất sanh bổ xứ Bồ-tát ban đại pháp vũ tên là Thanh tịnh phổ quang minh.
Vì quán đảnh Bồ tát ban đại pháp vũ tên là Được trang nghiêm với đồ trang nghiêm của Như Lai.
Vì đắc nhẫn Bồ-tát ban đại pháp vũ tên là Hoa trí tuệ công đức bảo nở xòe chẳng dứt hạnh Bồ-tát đại bi.
Vì Bồ-tát an trụ nơi Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng ban đại pháp vũ tên là Vào môn hiện tiền biến hóa rất sâu mà thật hành Bồ-tát hạnh không thôi dứt không mỏi nhàm.
Vì sơ phát tâm Bồ-tát ban đại pháp vũ tên là Xuất sanh hạnh đại từ bi cứu hộ chúng sanh của Như Lai.
Vì hạng cầu Độc giác thừa ban đại pháp vũ tên là Biết rõ pháp duyên khởi xa lìa nhị biên được quả giải thoát bất hoại.
Vì chúng sanh cầu Thanh văn thừa ban đại pháp vũ tên là Dùng kiếm đại trí tuệ chặt đứt tất cả oán tặc phiền não.
Vì chúng sanh chứa nhóm thiện căn quyết định hay chẳng quyết định ban đại pháp vũ tên là Hay khiến thành tựu các pháp môn sanh lòng rất hoan hỷ.
Chư Phật Như Lai tùy tâm chúng sanh ban những pháp vũ quảng đại như vậy đầy khắp tất cả vô biên thế giới.
Chư Phật tử! Đức Như Lai Đẳng chánh giác, tâm của ngài bình đẳng, nơi pháp không lẫn tiếc, chỉ vì chúng sanh căn dục chẳng đồng nên ban pháp vũ thị hiện có sai khác.
Đây là tướng thứ mười của âm thanh Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Khi Như Lai nói pháp, tùy thứ tự căn cơ mà ban pháp sâu cạn. Các Bồ-tát đã ngồi đạo tràng Bồ-đề, Bồ-tát tối hậu thân nghĩa là chỉ còn một thân rốt sau, Bồ-tát nhất sanh bổ xứ, Bồ-tát quán đảnh là những Bồ-tát chuẩn bị bước lên quả vị Phật. Tất cả đều nhận được đại pháp vũ thù thắng, như đại pháp vũ tên Pháp giới vô sai biệt nói lên ý nghĩa pháp giới rốt ráo bình đẳng.
Với các Bồ-tát sơ phát tâm, nhẫn đến hàng Duyên giác, Thanh văn, cuối cùng là chúng sanh chứa nhóm thiện căn quyết định hay không quyết định, Phật đều ban cho pháp vũ, tùy theo tâm lượng tin hiểu thọ trì mà làm cho hoan hỷ.
Tuy nói mười thứ âm thanh nhưng có thể kết luận tất cả ngôn âm của Phật phát ra đều tùy căn cơ chúng sanh lãnh thọ thích hợp chỗ tu, vị trí của mình, Phật không phân biệt và cũng không suy lường để chia chẻ từng phần, từng loại giáo pháp.
Lại nữa, chư Phật tử! Phải biết âm thanh của đức Như Lai có mười thứ vô lượng:
Một là như hư không giới vô lượng, vì đến tất cả chỗ.
Âm thanh của Phật đến tất cả chỗ vì lưu xuất từ pháp thân. Pháp thân đầy khắp nên âm thanh Phật cũng đầy khắp, đó là theo lý đạo. Ngày nay khoa học đã chứng minh được điều này. Như ở nước Việt Nam phát ra tiếng thì mọi người trên toàn thế giới cũng có thể nghe được.
Hai là như pháp giới vô lượng, vì không chỗ nào chẳng khắp.
Âm thanh của Phật đầy khắp vô lượng.
Ba là như chúng sanh giới vô lượng, vì khiến tất cả tâm hoan hỷ.
Âm thanh của Phật làm cho tất cả tâm chúng sanh hoan hỷ.
Bốn là các nghiệp vô lượng, vì nói quả báo của nghiệp.
Tùy theo nghiệp chúng sanh vô lượng, âm thanh của đức Phật cũng vô lượng để nói quả báo của nghiệp.
Năm là như phiền não vô lượng, vì đều làm cho trừ diệt.
Phiền não chúng sanh vô lượng, âm thanh của Phật cũng vô lượng để trừ diệt phiền não.
Sáu là như ngôn âm của chúng sanh vô lượng, vì tùy theo sự hiểu biết mà làm cho được nghe.
Ngôn âm của chúng sanh vô lượng, âm thanh của Phật cũng vô lượng để tất cả chúng sanh được nghe.
Bảy là như dục giải của chúng sanh vô lượng, vì khắp quán sát cứu độ.
Lòng dục của chúng sanh vô lượng, Phật muốn cứu độ họ nên nói vô lượng âm thanh.
Tám là như tam thế vô lượng, vì vô biên tế.
Âm thanh của đức Phật vô lượng vì phù hợp với ba đời không bờ mé.
Chín là như trí tuệ vô lượng, vì phân biệt tất cả.
Như trí tuệ vô lượng, âm thanh của Phật cũng vô lượng vì tùy theo trí tuệ phân biệt phát khởi.
Mười là như Phật cảnh giới vô lượng, vì nhập neod dana Phật pháp giới.
Phật cảnh giới vô lượng, âm thanh cũng vô lượng vì nhập pháp giới.
Chư Phật tử! Âm thanh của đức Như Lai Đẳng chánh giác thành tựu vô số vô lượng như vậy, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Đại thiên thế giới lúc sắp hoại
Do phước chúng sanh có tiếng bảo
Tứ thiền tịch tịnh không sự khổ
Khiến ai được nghe đều ly dục.
Thập lực Thế Tôn cũng như vậy
Phát diệu âm thanh khắp pháp giới
Vì nói các hạnh khổ vô thường
Khiến họ thoát hẳn biển sanh tử.
Như trong hang lớn chốn thâm sơn
Tùy có âm thanh đều vang dội
Dầu hay theo dõi ngôn ngữ kia
Mà vang rốt ráo vô phân biệt.
Thập lực ngôn âm cũng như vậy
Tùy kia căn thục vì thị hiện
Khiến họ điều phục sanh hoan hỷ
Chẳng nghĩ ta nay hay thuyết pháp
Như có thiên cổ tên Năng giác
Thường ở hư không chấn pháp âm
Răn những thiên tử ưa phóng dật
Khiến họ nghe xong lìa say đắm.
Thập lực pháp cổ cũng như vậy
Phát ra các thứ âm thanh diệu
Giác ngộ tất cả các quần sanh
Khiến họ đều chứng Bồ-đề quả.
Tự Tại Thiên vương có bảo nữ
Trong miệng khéo tấu các âm nhạc
Một tiếng hay phát trăm ngàn tiếng
Trong mỗi tiếng lại có trăm ngàn.
Thiện Thệ âm thanh cũng như vậy
Một tiếng mà phát tất cả tiếng
Tùy họ tánh dục có sai khác
Đều khiến nghe xong dứt phiền não.
Ví như Phạm vương phát một tiếng
Hay khiến Phạm chúng đều hoan hỷ
Tiếng đến Phạm chúng chẳng ra ngoài
Mỗi người đều nói riêng mình nghe.
Thập lực Thế Tôn cũng như vậy
Diễn một ngôn âm đầy pháp giới
Chỉ nhuần chúng hội chẳng ra xa
Bởi người chưa tin, chưa thọ được.
Như nước trong kia đồng một tánh
Vị tám công đức không sai khác
Nhân đất, tại đồ, đều chẳng đồng
Vì thế khiến nước có sai khác.
Nhất thiết trí âm cũng như vậy
Pháp tánh một vị không phân biệt
Tùy các chúng sanh hạnh chẳng đồng
Nên khiến người nghe nhiều sai khác.
Như Vô Nhiệt Não đại Long vương
Tuôn mưa thấm khắp đất Diêm phù
Hay khiến cỏ cây đều sanh trưởng
Nhưng nước chẳng từ thân rồng ra
Chư Phật diệu âm cũng như vậy
Ban khắp pháp giới đều đầy thẩm
Hay khiến sanh thiện diệt các ác
Chẳng từ trong ngoài mà được có.
Như Ma-na-tư đại Long vương
Nổi mây bảy ngày chưa vội mưa
Chờ các chúng sanh làm việc xong
Rồi sau mới mưa thành lợi ích.
Thập lực diễn nghĩa cũng như vậy
Trước dạy chúng sanh khiến thành thục
Rồi sau vì nói pháp thậm thâm
Đầu tiên khiến họ được nghe chẳng hãi sợ.
Đại Trang Nghiêm Long ở trong biển
Rưới mưa mười thứ đồ trang nghiêm
Hoặc trăm, hoặc ngàn, trăm ngàn thứ
Dầu nước một vị, trang nghiêm khác.
Vô thượng Biện Tài cũng như vậy
Nói mười, hai mươi các pháp môn
Hoặc trăm, hoặc ngàn đến vô lượng
Chẳng sanh tâm niệm có sai khác.
Tối thắng Long vương Ta-kiệt-la
Nổi mây trùm khắp tứ thiên hạ
Ở tất cả xứ mưa đều khác
Nhưng tâm Long vương không hai niệm.
Chư Phật Pháp vương cũng như vậy
Đại bi thân vân khắp mười phương
Vì người tu hành ban pháp khác
Nhưng với tất cả vô phân biệt.
Kết thúc phần này, Bồ-tát Phổ Hiền nói kệ tụng để lặp lại nghĩa trên. Âm thanh của Như Lai có mười tướng đặc biệt hy hữu, ví như tiếng trống trời răn nhắc chư thiên khiến lìa phóng dật, như thiên nữ khéo tấu âm nhạc trong một tiếng phát ra trăm ngàn tiếng…
Dùng tất cả mười thí dụ để nói về âm thanh của Như Lai, tùy căn cơ phước đức chúng sanh mà nghe nhận âm thanh ngôn giáo, mỗi bậc đều tiến tu theo địa vị của mình. Nhấn mạnh điểm chính yếu là diệu âm của Phật xứng hợp pháp tánh, chỉ một vị giải thoát không phân biệt. Chúng sanh được nghe đều hoan hỷ tín thọ, xa lìa khổ hoạn sợ sệt.
Phổ Hiền đại Bồ-tát lại bảo đại chúng Bồ-tát:
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết tâm của đức Như Lai Đẳng chánh giác như thế nào? Tâm, ý, thức của Như Lai đều bất khả đắc. Chỉ nên dùng trí vô lượng mà biết tâm Như Lai.
Bồ-tát Phổ Hiền nêu lên chỗ quan trọng, chư đại Bồ-tát phải biết tâm của Như Lai.
Tâm, ý, thức của Như Lai đều không thể được. Ngay câu này đã cho chúng ta thấy rõ, nếu dùng tâm duyên theo cảnh như tâm tham sân si hay tâm từ bi bác ái…, hoặc dùng ý suy nghĩ, thức phân biệt thì không thể biết được tâm Như Lai, chỉ nên dùng trí vô lượng mà biết tâm Như Lai.
Kinh Lăng-già nói rõ tâm, ý, thức đều thuộc về pháp sanh diệt, nên không khế hợp với bản thể chân như, chỉ có thể dùng trí vô phân biệt bất sanh bất diệt mới thật hiểu biết tâm Như Lai. Tất cả pháp môn tu của chúng ta đều quy về chỗ này, dùng phương tiện lắng hết tất cả tâm ý thức để trí vô phân biệt hiện rõ nhằm khế hợp với tâm của Như Lai. Đây là chỗ then chốt của sự tu.
Như hư không là chỗ nương dựa của tất cả vật, mà hư không không chỗ nương dựa. Như Lai trí tuệ cũng như vậy, là chỗ sở y của tất cả trí thế gian và trí xuất thế, mà Như Lai trí không sở y.
Đây là tướng thứ nhất của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Trí xuất thế gian và trí thế gian đều nương vào tâm Như Lai lưu xuất, trí Như Lai thì không nương tựa vào đâu. Nói cách khác, trí thế gian và xuất thế gian đều từ nơi Phật tánh lưu xuất. Phật tánh trùm khắp, không nơi chốn.
Đây là tướng thứ nhất của tâm Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như pháp giới thường xuất sanh tất cả Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát giải thoát, mà pháp giới không tăng không giảm. Như Lai trí tuệ cũng như vậy, hằng xuất sanh tất cả trí tuệ thế gian và xuất thế gian, mà Như Lai trí tuệ không tăng không giảm.
Đây là tướng thứ hai của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng thứ hai của tâm Như Lai, trí của Phật xuất sanh trí thế gian và trí xuất thế gian mà trí đó không tăng không giảm.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như đại hải, nước biển chảy ngầm khắp dưới đất của bốn châu thiên hạ và tám mươi ức tiểu châu, có ai đào đất đều được nước cả. Nhưng đại hải vẫn không có phân biệt là mình phát ra nước chảy ngầm khắp nơi. chi tinh th 1. Nước biển Phật trí cũng như vậy, chảy vào trong tâm của tất cả chúng sanh. Nếu có chúng sanh quán sát cảnh giới, tu tập pháp môn, thời được trí tuệ thanh tịnh minh liễu. Nhưng Như Lai trí bình đẳng không hai, không phân biệt. Chỉ tùy theo tâm hành sai khác của chúng sanh mà trí tuệ của họ được riêng khác chẳng đồng nhau.
Đây là tướng thứ ba của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng thứ ba, như nước biển chảy ngầm khắp bốn châu thiên hạ, trí Phật chảy vào tất cả tâm chúng sanh. Chúng sanh dùng trí quán sát tu tập các pháp môn thanh tịnh. Trí Phật bình đẳng không hai, không phân biệt, chỉ vì tâm hành chúng sanh sai khác nên trí tuệ riêng khác, dùng trí tuệ quán chiếu tu hành có kết quả riêng khác.
Lại nữa, chư Thiện nam tử! Ví như đại hải có bốn bảo châu đủ vô lượng công đức hay sanh tất cả trận bảo trong đại hải. Nếu trong đại hải không có bảo châu này, thời dầu là một trân bảo cũng không có được.
Đây là bốn bảo châu: một tên là Tích tập bảo, hai tên là Vô tận tạng, ba tên là Viễn ly xí nhiên, bốn tên là Cụ túc trang nghiêm.
Bốn bảo châu này, tất cả phàm phu, chư long thần đều chẳng thấy được. Vì Ta-kiệt-la Long vương cho bảo châu này xinh đẹp vuông vức nên cất chỗ thâm mật trong cung.
Biển đại trí tuệ của đức Như Lai Đẳng chánh giác cũng như vậy, trong đó có bốn đại trí bảo châu đầy đủ vô lượng phước trí công đức. Do đây có thể sanh tất cả trí tuệ của chúng sanh, của Thanh văn, Độc giác, bậc hữu học, vô học và trí tuệ của chư Bồ-tát.
Đây là bốn đại trí bảo: một tên là đại trí tuệ bảo phương tiện thiện xảo không nhiễm trước. Hai là đại trí tuệ bảo khéo phân biệt pháp hữu vi, vô vi. Ba là đại trí tuệ bảo phân biệt nói vô lượng pháp mà chẳng hoại pháp tánh. Bốn là đại trí tuệ bảo biết thời phi thời chưa từng lầm lỗi.
Tướng thứ tư, dùng thí dụ biển lớn có bốn bảo châu để nói biển đại trí tuệ của Như Lai có bốn trí đại bảo đầy đủ vô lượng phước trí công đức.
Bốn trí này rất quan trọng. Trí đại bảo thứ nhất là phương tiện khéo léo không nhiễm trước, diễn nói giáo lý làm lợi ích chúng sanh, mà không mắc kẹt trong danh lợi.
Trí đại bảo thứ hai là khéo phân biệt pháp hữu vi vô vi, người cầu giải thoát thì dẫn giải pháp vô vi, người cầu hữu lậu thì dạy pháp hữu vi. Trí đại bảo thứ ba là phân biệt nói vô lượng pháp mà chẳng hoại pháp tánh.
Trí này có nhiều điểm rất hay, rất đặc biệt. Như khi đức Phật Thích-ca nói kinh Di-đà, ngài giới thiệu cách cõi nước Ta-bà qua hơn mười vạn ức cõi Phật, có thế giới Cực lạc, có đức Phật A-di-đà hiện đang thuyết pháp. Đó là nói pháp môn Tịnh độ có cõi Phật ở Tây phương… nhưng không phá hoại pháp tánh. Tại sao? Vì nếu chúng sanh nhiếp tâm bất loạn, niệm Phật từ một ngày, hai ngày cho đến bảy ngày, liền được về cõi ấy, liền thấy Phật hiện. Ngài đang giảng nói pháp có cõi nước, có đức Phật bên ngoài nhưng chung quy cũng trở về pháp tánh. Pháp tánh tức là tự tâm không ở đâu khác, như kinh nói “Tự tánh Di-đà, duy tâm Tịnh độ”.
Hoặc như Mật tông dạy người trì chú suốt ngày, trong tất cả oai nghi đi đứng nằm ngồi… Hoặc khi thân ngồi kiết già tay bắt ấn, miệng trì chú, thân khẩu ý tương ưng, gọi là tam mật gia trì, sẽ thấy có những điều linh nghiệm. Sự linh nghiệm huyền bí đó thuộc về pháp tướng nhưng cũng không hoại pháp tánh. Vì cả ba thân miệng ý thanh tịnh phù hợp với pháp tánh chân tâm. Từ tâm lưu xuất ra các tướng nhiệm mầu.
Tất cả chư Phật đều như vậy, các ngài diễn nói bao nhiêu pháp tướng mà không hoại pháp tánh, ngôn âm là phương tiện để trở về tánh, không phải nói để người nghe mắc kẹt trên tướng. Chúng ta vì chấp trước nên nghe tiếng thì kẹt ở tiếng, không đạt được pháp tánh.
Như người muốn tu Thiền nhưng chưa từng tập ngồi thiền, tôi dạy pháp sổ tức, ngồi đếm hơi thở ra vô một, hơi thở ra vô hai… đến mười. Lâu dần được định tâm. Có người đã từng tập thiền, tôi dạy quán thân này do tứ đại đất, nước, gió, lửa duyên hợp không thật… biết thân này là giả, tâm không theo giả ngã mà sanh ra nhiễm trước. Lâu ngày tâm cũng an định. Tuy dạy bao nhiêu pháp hành khác nhau nhưng chung quy cũng trở về tâm an định, tâm an định tức là thể hợp với pháp tánh. Đó là nói bao nhiêu pháp mà không hoại pháp tánh.
Trí đại bảo thứ tư là biết thời phi thời, tức là lúc nào nên nói, lúc nào không nên nói, đúng thời đúng cơ chưa từng lầm lỗi. Nếu nói không đúng thời đúng cơ, người nghe không được lợi ích. Như có người đáng lẽ nên dạy pháp này, chúng ta lại dạy pháp khác, có người thì gặp lúc nên nói lại không nói, đến khi không nên nói thì lại nói, đó là không hợp thời hợp cơ. Thí dụ gặp một gia đình vừa có tang ma, chúng ta nên nói pháp vô thường để họ hiểu đây là điều mọi người đều phải chịu. Đó là nói pháp hợp thời. Nếu gặp lúc gia đình người đang tang tóc, mà lại dạy quán từ bi, nhẫn nhục… thì không hợp thời. Trí biết hợp thời hợp cơ, là trí quan trọng của người tu.
Nếu trong biển đại trí tuệ của đức Như Lai không có bốn đại trí tuệ bảo này thời tất cả chúng sanh, không một ai vào được Đại thừa.
Biển đại trí tuệ của Như Lai có bốn trí bảo châu, phát sanh trí tuệ của tất cả chúng sanh nhẫn đến các Bồ-tát.
Đó là ý nghĩa Phật khai sáng cho chúng ta, nếu là người giáo hóa chúng sanh cũng phải như vậy, người tu tập hạnh Bồ-tát cũng phải đầy đủ bốn trí ấy.
Những chúng sanh phước mỏng chẳng thể thấy được bốn đại trí bảo này. Vì để nơi tạng thâm mật của đức Như Lai.
Người phước mỏng không thấy được bốn trí đại bảo này, như trước chỗ Như Lai nói tất cả pháp mà không hoại pháp tánh. Người phước mỏng nghe nói pháp này thì chấp pháp này, nghe nói pháp kia thì chấp pháp kia, tất nhiên không thấy được pháp tánh. Người như vậy sẽ không thấy trí thứ ba của Phật. Các trí kia cũng vậy.
Bốn đại trí bảo này bình đẳng chánh trực đoan khiết diệu hảo, có thể lợi ích những chúng Bồ-tát, làm cho họ được trí tuệ quang minh.
Đây là tướng thứ tư của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Đến đây là kết thúc tướng thứ tư của tâm Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như đại hải có bốn đại bảo sáng chói rực rỡ bày ở đáy biển, tánh rất nóng, thường hay rút uống vô lượng dòng nước lớn của trăm sông chảy vào biển, vì thế nên đại hải không có tăng giảm.
Đây là bốn đại bảo: một tên là Nhật tạng, hai tên là Ly nhuận, ba tên là Hỏa diệm quang, bốn tên là Tận vô dư.
Nếu trong đại hải không có bốn đại bảo này thời nước sẽ ngập tràn từ bốn châu thiên hạ lên đến Hữu Đảnh.
Chư Phật tử! Quang minh của đại bảo Nhật tạng nếu chiếu nhằm nước biển thời đều biến thành sữa. Quang minh của Ly nhuận đại bảo nếu chiếu nhằm sữa này thời liền biến thành lạc. Quang minh của Hỏa diệm quang đại bảo chiếu nhằm lạc này thời biến thành tô. Quang minh của Tận vô dư đại bảo chiếu nhằm tô này thời biến thành đề-hồ, như lửa cháy phừng đều không còn sót thừa.
Những thí dụ này rất khó thấu rõ, chỉ cần biết đại khái.
Chư Phật tử! Cũng vậy, biển đại trí tuệ của đức Như Lai Đẳng chánh giác có bốn đại trí tuệ bảo đầy đủ vô lượng oai đức quang minh. Trí quang minh này chạm đến chư Bồ-tát, nhẫn đến khiến được đại trí của Như Lai.
Một là Đại trí bảo diệt tất cả lượng sóng tán thiện. Hai là Đại trí bảo trừ tất cả pháp ái. Ba là Đại trí bảo tuệ quang chiếu khắp. Bốn là Đại trí bảo cùng với Như Lai bình đẳng vô biên vô công dụng.
Phần trên là kể tên, dưới đây giải thích.
Lúc chư Bồ-tát tu tập tất cả pháp trợ đạo phát khởi vô lượng tán thiện. Tất cả thế gian, thiên, nhân, a-tu-la chẳng phá hư được. Đức Như Lai dùng quang minh của đại trí bảo diệt tán thiện chiếu đến.
Bước thứ hai, khi Bồ-tát từ bỏ tán thiện được chánh định, Phật dạy phá trừ pháp ái, không chìm đắm trong chánh định, phát khởi đại thần thông. Đại thần thông tức là dùng mọi phương tiện để độ sanh.
Bồ tát này khiến bỏ tất cả tán thiện, chuyên tâm một cảnh trụ nơi chánh định.
Khi Bồ-tát tu tập tất cả pháp trợ đạo phát khởi vô lượng tán thiện, nghĩa là làm trăm ngàn việc lành mà tâm bị xao động không chuyên nhất. Lúc Bồ-tát tu tán thiện như thế thì không ai dẹp phá được, chỉ có Như Lai dùng quang minh của đại trí bảo diệt tán thiện, chiếu đến Bồ-tát này khiến bỏ tất cả tán thiện, chuyên tâm một cảnh an trụ nơi chánh định. Như vậy, người tu Bồ-tát hạnh là phải làm việc lành giúp ích chúng sanh, nếu cứ an trụ một chỗ thì làm sao chứng Bồ-tát hạnh? Phải hiểu rằng làm tất cả việc thiện mà tâm phân tán xao động, việc thiện ấy là tán thiện, không giúp người tu được chánh định. Dù làm vô lượng tán thiện thì cũng chỉ ở trong thiện hữu lậu, không thể nhập pháp tánh, không thành tựu quả vị vô thượng. Hàng Bồ-tát tu đến đây, phải nhờ sức gia bị của Phật, dùng ánh sáng đại trí diệt tán thiện để an trụ chánh định. An trụ chánh định rồi khởi diệu dụng, dù làm vô số vô lượng việc thiện cũng không phân tâm, đều được vô tâm cũng gọi là vô tâm dụng.
Nêu ra bốn đại trí bảo dẫn dắt Bồ-tát từ thấp lên cao. Hàng Bồ-tát mới phát tâm sợ e trụ trước trong tán thiện, nên được đại trí bảo chiếu phá để chuyên tâm vào một cảnh trụ nơi chánh định. Đây là bước thứ nhất.
Lại dùng quang minh của đại trí bảo trừ pháp ái chiếu đến Bồ-tát này khiến trừ bỏ lòng tham đắm nơi tam-muội, phát khởi đại thần thông.
Lại dùng quang minh của đại trí bảo tuệ quang phổ chiếu chạm đến Bồ-tát này, khiến bỏ thần thông quảng đại đã phát khởi, mà trụ nơi đại minh công dụng hạnh.
Bước thứ ba, Bồ-tát tuy dùng thần thông giáo hóa xiển dương Phật pháp… Phật lại dạy phá thần thông đó để trụ nơi đại minh công dụng hạnh. Đây là công dụng hữu công, tuy sáng suốt vẫn còn dụng công.
Lại dùng quang minh của đại trí bảo cùng Như Lai bình đẳng vô biên vô công dụng chiếu đến Bồ-tát này, khiến bỏ đại minh công dụng hạnh đã phát khởi, nhẫn đến được bậc Như Lai bình đẳng, dứt sạch tất cả công dụng không sót thừa.
Bước thứ tư, dạy Bồ-tát bỏ tánh sáng hữu công đến vô công dụng hạnh, được Như Lai bình đẳng. Đại trí bảo quang của Phật phá tất cả chấp của Bồ-tát từ thấp lên cao, cho đến lúc làm tất cả mà không dụng công dụng, mới trọn vẹn thành tựu như đức Phật. Nếu còn trong hữu công dụng hạnh thì cũng chưa được như Phật.
Nếu không có quang minh của bốn đại trí bảo của đức Như Lai chiếu đến, thời tất không có một Bồ-tát nào được bậc Như Lai.
Đây là tướng thứ năm của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng thứ năm của tâm Như Lai, đức Phật phóng ánh sáng trí tuệ chỉ dạy rõ ràng các bậc tu chứng của Bồ-tát, để không vướng kẹt vào chỗ đã được, tiến dần đến viên mãn.
Lại nữa, chư Phật tử! Như từ thủy tế lên đến Phi Tưởng Phi Phi Tưởng thiên, trong đó cả Đại thiên quốc độ, những chúng sanh cõi Dục, cõi Sắc, cõi Vô sắc, đều nương hư không mà khởi mà trụ. Vì hư không cùng khắp vậy. Dầu hư không đó dung khắp ba cõi mà không phân biệt.
Như Lai trí tuệ cũng như vậy. Hoặc Thanh văn trí, hoặc Độc giác trí, hoặc Bồ-tát trí, hoặc hữu vi hạnh trí, hoặc vô vi hạnh trí, tất cả đều nương Như Lai trí mà khởi mà trụ. Vì trí tuệ của Như Lai khắp tất cả. Dầu dung khắp tất cả vô lượng trí tuệ, mà Như Lai trí tuệ vẫn không phân biệt.
Đây là tướng thứ sáu của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Trí tuệ Như Lai chính là Phật tánh, tất cả chúng ta đều có Phật tánh, Phật tánh ấy dung chứa trí tuệ Thanh văn, Độc giác, Bồ-tát, hữu vi, vô vi… Tất cả trí đều từ Phật tánh hay pháp tánh khởi lên, không trí nào ngoài đó. Thí như hư không bao trùm ba cõi Dục giới, Sắc giới, Vô sắc giới, tất cả chúng sanh đều ở trong hư không. Cũng vậy, tất cả trí của Thanh văn, Bồ-tát đều từ trí tuệ Như Lai hay là từ Phật tánh lưu xuất.
Đây là tướng thứ sáu của tâm Như Lai.
Lại nữa, chư Phật tử! Như đảnh núi Tuyết có cây Dược vương tên là Vô Tận Căn. Rễ cây Dược vương này mọc từ thủy luân tế suốt thấu kim cang địa sâu mười sáu vạn tám ngàn do-tuần. Lúc cây Dược vương này mọc rễ thời tất cả cây ở Diêm-phù-đề mọc rễ, lúc thân cây Dược vương mọc lên thời tất cả thân cây ở Diêm-phù đề mọc lên, nhánh lá bông trái cũng như vậy. Cây Dược vương này, gốc hay sanh cây, cây hay sanh gốc rễ. Gốc rễ không cùng tận nên gọi là Vô Tận Căn.
Cây Dược vương này hay làm cho những cây ở tất cả xứ đều được sanh trưởng, chỉ trừ hai nơi địa ngục và trong thủy luân không thể làm tăng trưởng. Nhưng cũng không nhàm bỏ hai nơi đó.
Cây đại Dược vương trí tuệ của Như Lai cũng như vậy. Do quá khứ phát sanh thành tựu tất cả trí tuệ pháp lành, trùm khắp tất cả chúng sanh giới, trừ diệt tất cả những khổ ác đạo. Bi nguyện quảng đại làm gốc rễ, sanh trong chủng tánh trí tuệ chân thật của tất cả Như Lai. Phương tiện thiện xảo kiên cố bất động dùng làm thân cây. Trí khắp pháp giới các ba-la-mật dùng làm nhánh cây. Thiền định, giải thoát, các đại tam-muội dùng làm lá cây. Tổng trì biện tài Bồ-đề phần pháp dùng làm bông. Chư Phật giải thoát rốt ráo không biến đổi dùng làm trái.
Đến đây, Bồ-tát Phổ Hiền gồm cả pháp lẫn dụ. Dụ là cây Dược vương gốc vô tận, pháp là trí tuệ Như Lai.
Trí tuệ Như Lai thành tựu những gì? Phật thành tựu trí tuệ pháp lành trùm khắp pháp giới, diệt trừ khổ não trong ác đạo, đó là trí. Kế lấy bi nguyện quảng đại làm gốc rễ. Nếu lòng bi không phát sanh từ trí tuệ chân thật của Như Lai thì lòng bi ấy biến thành ái kiến, tình thương theo kiến chấp không bình đẳng. Trí tuệ là gốc của từ bi, từ bi không lìa xa trí tuệ, nếu muốn có từ bi thì trước phải tu tập trí tuệ vững mạnh, đó thật là đại bi.
Ngài Khuê Phong có nói, tuy hiểu đạo tiến tu nhưng do tiếp duyên xúc cảnh nên sợ mắc kẹt trong ái kiến, ngài nhập thất mười năm để trí tuệ thật vững, sau đó làm Phật sự mới khỏi bị mắc kẹt trong ái kiến bi. Điều này nhắc nhở chúng ta, nhiều lúc thấy mình thương chúng sanh, dường như có lòng từ bi, có tâm Bồ-tát. Nhưng nếu từ bi ấy không đâm mầm mọc rễ trong đất trí tuệ chân thật thì liền trở thành ái kiến.
Đây nói do trí tuệ pháp lành trùm khắp tất cả chúng sanh giới, trừ diệt tất cả những khổ ác đạo, đó là đất. Bi nguyện đâm gốc mọc rễ trong đất trí tuệ ấy, vươn lên thân cây phương tiện thiện xảo bất động, mọc ra nhánh ba-la-mật, từ nhánh ba-la-mật ra lá thiền định giải thoát, trổ thành bông Tổng trì biện tài, cuối cùng thành trái giải thoát. Giải thích rõ ràng thứ tự như thế.
Cây đại Dược vương trí tuệ của đức Như Lai cớ sao lại được gọi là Vô Tận Căn? Vì rốt ráo không thôi dứt. Vì chẳng dứt Bồ-tát hạnh. Bồ-tát hạnh tức là Như Lai tánh, Như Lai tánh tức là Bồ-tát hạnh nên được gọi là Vô Tận Căn.
Nói cây Dược vương trí tuệ vô tận căn là nhấn mạnh Bồ-tát hạnh không bao giờ dứt. Bồ-tát làm lợi ích chúng sanh đến vô biên tế, không đoạn dứt bản nguyện.
Chư Phật tử! Lúc cây đại trí tuệ của Như Lai mọc rễ thời làm cho tất cả Bồ-tát sanh rễ đại từ bi chẳng bỏ chúng sanh.
Lúc thân cây đại trí tuệ này sanh lên thời làm cho tất cả Bồ-tát tăng trưởng thân cây thâm tâm tinh tấn kiên cố.
Lúc nhánh của đại trí tuệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ-tát tăng trưởng tất cả nhánh ba-la-mật.
Lúc lá của đại trí tuệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ-tát sanh trưởng lá công đức tịnh giới đầu đà thiểu dục tri túc.
Lúc bông đại trí tuệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ-tát đầy đủ bông thiện căn tướng hảo trang nghiêm.
Lúc trái đại trí tuệ này sanh thời làm cho tất cả Bồ-tát được trái Vô sanh nhẫn cho đến quả chư Phật quán đảnh nhẫn. Trí tuệ của Như Lai chỉ không thể làm cho hai chỗ được lợi ích sanh trưởng: một là hàng Nhị thừa sa vào hố sâu vô vi quảng đại, hai là những chúng sanh hư hoại thiện căn chìm trong nước đại tà kiến tham ái. Nhưng vẫn không hề nhàm bỏ hai chỗ đó.
Chư Phật tử! Trí tuệ của đức Như Lai không tăng giảm, vì gốc rễ khéo an trụ sanh trưởng không thôi dứt.
Đây là tướng thứ bảy của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng thứ bảy của tâm Như Lai tóm tắt như sau: Tâm ý thức của Phật hay trí tuệ Phật là cội nguồn sanh ra tất cả công hạnh Bồ-tát, đến khi viên mãn đại quả. Đây là điểm chính yếu.
Trí tuệ Phật không được lợi ích chỉ có hai chỗ. Thứ nhất là hàng Nhị thừa sa vào hố sâu vô vi quảng đại, tức là hố Niết-bàn. Khi các vị A-la-hán đạt được ngã không, được tịch tĩnh an lạc Niết-bàn vô vi thì liền an trụ trong đó. Các ngài chìm trong Niết-bàn tịch tĩnh không phát nguyện độ sanh nên gọi là hố sâu vô vi quảng đại. Chỗ này không phát khởi trí tuệ Phật. Thứ hai là những chúng sanh tà kiến, đắm mê không tin Phật. Như chủ trương chết là hết, chỉ cần đời này hưởng thụ ăn sang mặc sướng, chết rồi hết, không có gì tin, không có gì tu. Với hạng chúng sanh này, trí tuệ Phật không giúp họ được. Tuy vậy Phật cũng vẫn không bỏ hai hạng người đó, tìm đủ phương tiện để cảnh tỉnh, nhắc nhở, vì lòng từ bi của Phật vô lượng.
Nghĩa bên ngoài là như thế, nghĩa bên trong thì trí tuệ Phật không bao giờ dứt mất, ngay cả người chìm trong Niết-bàn tịch tịnh, hay kẻ lạc vào tà kiến. Nên nói không bao giờ Phật bỏ chúng sanh, tin hay không tin đều có Phật. Người có niềm tin biết tu tập thì thấy được, người không tin thì không thấy.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như Đại thiên thế giới, lúc kiếp hỏa khởi đốt cháy tất cả cây cỏ lùm rừng, nhẫn đến núi Thiết Vi, núi Đại Thiết Vi đều cháy không thừa sót. Giả sử có người cầm cỏ khô ném vào trong lửa đó tất là phải cháy hết. Nhưng cũng cho là cỏ đó được chẳng cháy, chứ còn không thể nói rằng trí tuệ của đức Như Lai phân biệt không biết hết tam thế tất cả chúng sanh, tất cả quốc độ, tất cả kiếp số, tất cả các pháp. Vì trí tuệ Như Lai bình đẳng thấu rõ tất cả.
Đây là tướng thứ tám của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng thứ tám chỉ cho tâm Như Lai trùm khắp thấu suốt không chướng ngại. Đây nói giả sử khi kiếp hỏa khởi lên đốt cháy tất cả. Kiếp hỏa có thể chúng ta khó hiểu vì chưa từng thấy, tạm thí dụ như cả một dãy phố lửa đang cháy ầm ầm, lúc đó có người nắm cỏ khô quăng vào lửa, họ có quyền tưởng nắm cỏ đó không cháy, nhưng đừng bao giờ nghĩ rằng trí tuệ của Phật không khắp, không biết hết tam thế tất cả chúng sanh, tất cả quốc độ, tất cả kiếp, tất cả pháp.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như phong tai lúc phá hoại thế giới, có gió lớn nổi lên tên là Tán Hoại, có thể phá hư Đại thiên thế giới, núi Thiết Vi v.v… đều nát thành bụi, Lại có gió lớn tên là Năng Chướng bao che xung quanh Đại thiên thế giới, ngăn gió Tán Hoại không cho thổi đến những thế giới khác. Nếu không có gió Năng Chướng này thời thập phương thế giới sẽ tan hư cả.
Cũng vậy, đức Như Lai Đẳng chánh giác có đại trí phong tên là Năng Diệt, có thể diệt trừ tập khí phiền não của tất cả chư đại Bồ-tát. Có đại trí phong tên là Xảo Trì, khéo giữ gìn chư Bồ-tát căn khí chưa thành thục chẳng cho đại trí phong Năng Diệt dứt tất cả tập khí phiền não. Nếu không có đại trí phong Xảo Trì của Như Lai, thời vô lượng Bồ-tát sẽ sa vào bậc Thanh văn, Bích-chi Phật. Do trí Xảo Trì này làm cho chư Bồ-tát vượt khỏi bậc Nhị thừa an trụ nơi bậc rốt ráo của Như Lai.
Đây là tướng thứ chín của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Tướng thứ chín của tâm Như Lai là hai trí, trí Năng Diệt và trí Xảo Trì. Trí Năng Diệt là hay diệt các tập khí phiền não của Bồ-tát, nhưng nếu diệt hết thì sẽ rơi vào Niết-bàn của Thanh văn. Vì sạch tất cả tập khí tức không còn sanh, mà không sanh thì làm sao tu hạnh Bồ-tát? Cho nên Bồ-tát phải dùng trí Xảo Trì, lưu lại ít tập khí để trở lại sanh trong các loài mà hóa độ chúng sanh, viên mãn công hạnh của Bồ-tát, Đây là chỗ khác nhau giữa Bồ-tát và Thanh văn, Duyên giác. Ở giai đoạn đầu các ngài tu không khác nhau, đều dùng trí Năng Diệt để diệt trừ tập khí phiền não. Nhưng đến chỗ tịch diệt thì Bồ-tát không chìm trong đó, mà dùng trí Xảo Trì trở lại độ thoát chúng sanh, đầy đủ công hạnh rồi mới thành Phật. Đó là chỗ đặc biệt của Bồ-tát.
Lại nữa, chư Phật tử! Trí tuệ của đức Như Lai không chỗ nào là chẳng đến. Vì không một chúng sanh nào mà chẳng có đủ Như Lai trí tuệ, chỉ do vọng tưởng điên đảo chấp trước nên không chứng được.
Nếu rời vọng tưởng thời Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí liền hiện tiền.
Tất cả chúng sanh đều có trí tuệ Như Lai, chỉ do vọng tưởng điên đảo chấp trước nên không chứng được. Muốn chứng được trí tuệ Như Lai chỉ cần rời vọng tưởng thì Nhất thiết trí, Tự nhiên trí, Vô ngại trí liền được hiện tiền. Như mây tan trăng hiện, khi mây dày đặc dù có cầu mong gì thì mặt trăng vẫn không hiện. Việc tu của chúng ta cũng vậy. Có người không hiểu nói, tu gì cứ ngồi làm thinh một chỗ, sao không làm việc này việc kia, cất chùa, bố thí… lợi ích cho mọi người? Nên biết, ngồi làm thinh đó chính là dứt trừ vọng tưởng điên đảo chấp trước, để trí tuệ Như Lai được hiển hiện. Đó là chỗ thiết yếu trong sự tu tập.
Ví như có quyển sách lớn bằng Đại thiên thế giới, biên chép hết cả những sự trong Đại thiên thế giới. Những là biên chép hết những sự trong Đại Thiết Vì sơn thời lượng bằng núi Đại Thiết Vi, biên chép những sự trong đại địa thời lượng bằng đại địa, biên chép những sự trong Trung thiên thế giới thời lượng bằng Trung thiên thế giới, biên chép những sự trong Tiểu thiên thế giới thời lượng bằng Tiểu thiên thế giới. Như vậy nhẫn đến biên chép những sự trong bốn châu thiên hạ, trong đại hải, trong Tu-di sơn, trong cung điện của Địa Cư thiên, của Không Cư thiên, của Sắc giới thiên, của Vô sắc giới thiên, biên chép mỗi xứ thời lượng của sách cũng bằng như vậy. Quyển sách lớn này dầu lượng bằng Đại thiên thế giới mà toàn ở tại trong một vi trần. Như một vị trần, tất cả vị trần cũng đều như vậy.
Quyển sách to lớn như vậy mà nhét trong hạt bụi nhỏ. Một hạt bụi nhỏ có quyển sách ấy, trăm triệu ức hạt bụi khác cũng đều có, mỗi mỗi hạt bụi đều có quyển sách đó.
Bấy giờ có một người trí tuệ sáng suốt, thành tựu đầy đủ thiên nhãn thanh tịnh, thấy quyển sách này ở trong vi trần không chút lợi ích cho các chúng sanh, bèn nghĩ rằng tôi nên dùng sức tinh tấn phá vỡ vị trần đó để đem quyển sách lớn ra, làm cho các chúng sanh được lợi ích. Nghĩ xong, người này liền dùng phương tiện phá vỡ vị trần đem quyển sách lớn ra, làm cho các chúng sanh được lợi ích. Như nơi một vị trần, tất cả vi trần cũng đều như vậy.
Cũng vậy, trí tuệ của đức Như Lai vô lượng vô ngại, có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh, đầy đủ ở trong thân chúng sanh. Chỉ vì hàng phàm phu vọng tưởng chấp trước nên chẳng biết chẳng hay, chẳng được lợi ích.
Trí tuệ Như Lai vô lượng vô ngại làm lợi ích khắp chúng sanh, hiện có đầy đủ trong thân chúng sanh, không thiếu không khuyết. Nhưng vì chúng sanh không biết, rơi vào lỗi vọng tưởng chấp trước, nên chẳng được lợi ích.
Bấy giờ đức Như Lai do trí nhãn thanh tịnh vô ngại, xem khắp pháp giới tất cả chúng sanh
mà nói rằng: Lạ thay! Lạ thay! Tại sao các chúng sanh này có đủ trí tuệ Như Lai, mà ngu si mê lầm chẳng hay chẳng thấy. Ta nên đem thánh đạo dạy cho họ lìa hẳn vọng tưởng chấp trước. Từ trong thân, họ thấy được trí tuệ Như Lai quảng đại, như Phật không khác.
Đức Phật do trí nhãn thanh tịnh xem thấy tất cả chúng sanh đều có đủ trí tuệ Như Lai, mà do ngu si mê lầm nên không thấy biết. Vì vậy Phật mới đem thánh đạo chỉ dạy, khiến chúng ta trừ bỏ vọng tưởng chấp trước. Khi nào lìa hẳn vọng tưởng chấp trước rồi, chừng ấy mới thấy được trí tuệ Như Lai quảng đại, mới tin mình và Phật không khác, nên nói thấy đồng chư Phật.
Nói xong, đức Như Lai liền đem thánh đạo dạy chúng sanh cho họ lìa vọng tưởng. Lìa vọng tưởng rồi thời chứng được Như Lai vô lượng trí tuệ, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh.
Đây là tướng thứ mười của tâm Như Lai, chư đại Bồ-tát phải biết như vậy.
Đoạn này chỉ tường tận không còn chỗ nào khuất lấp. Lìa vọng tưởng rồi thời chứng được Như Lai vô lượng trí tuệ, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh. Trí tuệ Như Lai này trong các kinh điển thường dùng nhiều tên gọi khác nhau, cũng cốt chỉ ra cái chúng ta sẵn có mà không nhận ra. Như trong kinh Pháp Hoa gọi Phật tri kiến, kinh Niết-bàn gọi Phật tánh hay Niết-bàn, kinh Viên Giác gọi Viên giác tánh, kinh Lăng-nghiêm gọi Chân tâm v.v..
Trí thứ mười của Phật cũng chính là trí của chúng ta. Phật thấy tất cả chúng sanh đều có trí tuệ như Phật, nên ngài phương tiện chỉ dạy khiến cho chúng ta tự nhận, nhận được thì đồng chư Phật. Nói thành Phật đó chẳng phải thành Phật nào khác, mà chính là Phật sẵn có ngay mình. Bấy lâu chúng ta mê lầm nên không nhận ra, bây giờ biết rồi chỉ cần dứt vọng tưởng chấp trước thì Phật hiện tiền. Lợi ích cho mình, cho người vô lượng không có ngằn mé.
Đây dùng thí dụ, có quyển kinh lớn bằng Tam thiên đại thiên thế giới, trong đó ghi đủ các việc, ghi cái gì thì lượng của nó bằng cái đó. Ghi núi Tu-di thì lượng bằng núi Tu-di, ghi đại địa thì lượng bằng đại địa… cho đến ghi hết sự việc trong Tam thiên Đại thiên thế giới thì lượng cũng bằng Tam thiên Đại thiên thế giới. Quyển sách to như vậy mà đem nhét trong hạt bụi nhỏ xíu, thật là một điều hy hữu khó tin! Nhưng nếu tín hiểu được thì chúng ta mới tin mình thành Phật không khó.
Thông thường chúng ta nghĩ tính điều gì thì chỉ biết điều ấy thôi, ngoài cái nghĩ tính đó ra chúng ta không biết điều gì khác. Vậy tại sao nói trí của mình trùm khắp thế giới mười phương? Điều này làm sao tin nổi? Bởi mình cứ nghĩ vật gì lớn mạnh mới có công năng lớn mạnh, còn những cái nhỏ thì không bao giờ có công năng lớn. Hiện tại chúng ta có thể căn cứ theo khoa học để tạm hiểu. Như bom nguyên tử được kết hợp từ những hạt nguyên tử nhỏ xíu, mắt thường không thể thấy được. Nhưng nếu phá vỡ những hạt đó ra thì lượng nó trùm cả bao nhiêu cây số? Lượng nó rất nhỏ mà công năng rất lớn.
Vật chất còn có công năng như vậy, huống là tinh thần của chúng ta!
Do chúng ta vướng mắc vào thân tứ đại nên không thấy được diệu dụng của trí tuệ rỗng rang trùm khắp. Nếu phá vỡ được tâm chấp trước thì lượng của nó trùm khắp Tam thiên Đại thiên thế giới. Cho nên người thấu được lý này thì thấy thân như hòn bọt ngoài biển cả, như vành xe giữa trời, như hoa đốm trong không, không có nghĩa lý gì. Sanh không từ đâu, diệt chẳng về đâu. Bởi chúng ta bám vào thân cho đó là quý nên mải đi tìm, mất cái này chụp cái khác, luân hồi đời đời kiếp kiếp. Nếu nhận ra tâm rộng lớn trùm khắp thì đâu còn tiếc thân, không còn sợ luân hồi nữa.
Gốc luân hồi là từ ái ngã. Kinh Viên Giác nói, còn ái ngã là còn luân hồi. Ái ngã là yêu thân mình. Bởi yêu thân nên sợ mất thân, vì vậy một khi mất thân thì vội đi tìm thân khác. Mất cái thứ nhất kiếm cái thứ hai, mất thứ hai kiếm thứ ba… cứ kiếm tìm hoài, gọi là ái ngã, Ái ngã gốc từ đâu? Từ ái dục. Ái dục khô thì ái ngã hết, ái ngã hết thì ái dục cũng khô, hai thứ này liên hệ chặt chẽ nhau. Chúng sanh có thọ thai là gốc từ ái ngã và ái dục, nếu dứt được hai thứ ấy thì chắc chắn không còn sanh để phải chịu khổ, bị nghiệp đẩy đi luân hồi trong thế gian nữa, Trừ các vị Bồ-tát vì nguyện trở lại, nên các ngài không bị nghiệp đẩy mà tự chọn nơi nào cần đến để làm lợi ích cho chúng sanh.
Kinh điển Phật dạy từ Tiểu thừa cho đến Đại thừa đều cốt phá chấp ngã. Nói ngã là bất tịnh, là vô thường, là khổ, là huyễn hóa không thật… để cho chúng ta không còn ái ngã. Không ái ngã thì hết luân hồi, đó là điểm thiết yếu. Sở dĩ chúng ta còn tiếc hạt bụi không dám bỏ, vì không thấy quyển kinh trong đó. Hạt bụi dụ cho thân tứ đại, ngũ uẩn. Quyển kinh chỉ cho trí tuệ Như Lai, hay chân tâm, Phật tánh của mình. Nhận ra quyển kinh tức đã thấy được lý thật thì thân tướng này có nghĩa lý gì. Con đường tu hành ngang đây yên ổn, không còn lo sợ. Nếu không nắm vững được then chốt đó thì dù có dụng công tu hành tới đâu cũng mờ mịt không biết ngày mai.
Trí tuệ Phật là trí vô thượng. Trí tuệ đó không riêng đức Phật mà tất cả chúng sanh đều đầy đủ, chỉ cần lìa bỏ vọng tưởng chấp trước thì trí tuệ Như Lai sẽ hiện ra nơi mình. Lúc ấy có thể làm lợi ích, an lạc cho các chúng sanh. Đó là điều hy hữu và cũng chính là mục đích xuất hiện của Như Lai. Kinh Pháp Hoa nói, chư Phật ra đời vì một đại sự nhân duyên, khai thị chúng sanh ngộ nhập Phật tri kiến. Cũng vậy, phẩm này tên là Như Lai Xuất Hiện, nói lên nguyên nhân đức Phật ra đời, tâm Phật như thế nào v.v… chính là muốn chỉ cho chúng ta biết Phật tánh sẵn có mà lâu nay mình không biết. Nếu ngộ được, nhận ra thì rõ biết ý nghĩa Phật ra đời.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải dùng vô lượng vô ngại bất tư nghì tướng quảng đại như vậy để biết tâm của đức Như Lai Đẳng chánh giác.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Muốn biết tâm chư Phật
Nên quán trí tuệ Phật
Phật trí không chỗ nương
Như hư không vô y.
Chúng sanh mọi điều vui
Và những trí phương tiện
Đều nương Phật trí tuệ
Phật trí không y chỉ.
Thanh văn và Độc giác
Cùng chư Phật giải thoát
Đều nương nơi pháp giới
Pháp giới không tăng giảm.
Phật trí cũng như vậy
Xuất sanh nhất thiết trí
Không tăng cũng không giảm
Không sanh cũng không diệt.
Như nước thường chảy ngầm
Ai đào đều được nước
Nước không niệm, vô tận
Công lực khắp mười phương.
Phật trí cũng như vậy
Ở khắp tâm chúng sanh
Nếu ai siêng tu hành
Mau được trí quang minh.
Như rồng có bốn châu
Xuất sanh tất cả báu
Cất châu chỗ thâm mật
Kẻ phàm chẳng thấy được.
Phật bốn trí cũng vậy
Xuất sanh tất cả trí
Người khác không thấy được
Chỉ trừ đại Bồ tát
Như biển có bốn báu
Hay rút tất cả nước
Khiến biển chẳng tràn đầy
Cũng lại không thêm bớt.
Trí Như Lai cũng vậy
Dứt sóng trừ pháp ái
Rộng lớn không ngần mé
Hay sanh Phật Bồ-tát,
Hạ phương đến Hữu đảnh
Dục, Sắc, Vô sắc giới,
Tất cả nương hư không
Hư không chẳng phân biệt.
Thanh văn và Độc giác
Bồ-tát các trí tuệ
Đều nương nơi Phật trí
Trí Phật vô phân biệt.
Núi tuyết có Dược vương
Tên là Vô Tận Căn
Hay sanh tất cả cây
Gốc, thân, nhánh, bông, trái.
Phật trí cũng như vậy
Sanh trong Như Lai chủng
Đã được Bồ-đề rồi
Lại sanh Bồ-tát hạnh.
Như người cầm cỏ khô
Để vào trong kiếp hỏa
Kim cang còn cháy đỏ
Cỏ khô tất phải cháy
Tam thế kiếp và cõi
Trong đó các chúng sanh
Cỏ khô cho chẳng cháy
Phật trí biết tất cả.
Có gió tên Tán Hoại
Hay phá hoại Đại thiên
Nếu không gió khác ngăn
Sẽ hoại vô lượng cõi.
Gió đại trí cũng vậy
Diệt phiền não Bồ-tát
Lại có gió Thiện Xảo
Khiến trụ bậc Như Lai.
Đoạn này ngài Phổ Hiền nói rõ lại nghĩa trên, nên tôi không giảng thêm, chỉ nhắc lại thí dụ cuối.
Như có quyển sách lớn
Lượng bằng Đại thiên giới
Ở trong một vị trần
Tất cả trần cũng vậy.
Có một người thông minh
Tịnh nhãn đều thấy rõ
Phá trần đem sách ra
Lợi ích khắp chúng sanh.
Phật trí cũng như vậy
Ở khắp tâm chúng sanh
Bị vọng tưởng buộc rằng
Chẳng hay cũng chẳng biết.
Dụ này gọi là “phá vi trần xuất kinh quyển”. Đập hạt bụi đem sách ra, lợi ích khắp chúng sanh. Chúng ta đã sẵn có trí tuệ Như Lai, nhưng do vọng tưởng buộc ràng nên không hay không biết.
Chư Phật đại từ bi
Khiến họ trừ vọng tưởng
Phật trí bèn xuất hiện
Lợi ích chư Bồ-tát.
Đại từ bi của Phật chính là chỉ cho biết cách trừ vọng tưởng để trí tuệ Như Lai xuất hiện. Nhưng đa phần chúng ta hay nhận lầm, nghĩ rằng ai có chuyện gì cần mình giúp là từ bi. Nếu chúng ta chỉ giúp người mà không chỉ cho họ cách trừ vọng tưởng thì chưa được gọi là đại từ bi. Vì việc làm đó chỉ giúp ích một thời gian ngắn, còn chỉ cho thấy được Phật trí nơi mình thì vĩnh viễn thoát khỏi phiền não, cứu cánh an lạc.
Đức Phật ra đời cốt chỉ cho thấy nơi mỗi người đều đầy đủ trí Như Lai, hiện đang bị vọng tưởng che lấp, phải phá trừ vọng tưởng thì trí Như Lai mới hiện. Chỗ này chúng ta nghe nhận, tin hiểu được mới thấy hay, còn không sẽ tưởng chư Phật, Bồ-tát nói chuyện đậu đâu.
Trong kinh Pháp Hoa, Bồ-tát Thường Bất Khinh đi tới đâu cũng nói: “Tôi không dám khinh các ngài, vì các ngài đều sẽ thành Phật.” Ngài đã gieo cho chúng ta niềm tin, đó là tin mình có trí tuệ Phật, có khả năng thành Phật. Chúng sanh vì mê lầm nên quên mình có hạt châu vô giá trong chéo áo, nhờ Phật Bồ-tát nhắc cho biết mới cố gắng tìm nhận. Nhận được rồi thì sử dụng không thiếu thốn. Nhắc có hạt châu là việc làm rất nhỏ mà công dụng rất lớn. Cũng vậy, dạy trừ vọng tưởng nghe nhỏ quá, nhưng không ngờ đó mới thật sự là lớn, vì có thể giúp chúng ta nhận ra Phật tánh nơi chính mình, nên nói chư Phật đại từ bi là vậy.
Phổ Hiền đại Bồ-tát lại bảo chư Bồ-tát:
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết cảnh giới của đức Như Lai Đẳng chánh giác như thế nào? Đại Bồ-tát dùng trí tuệ vô ngại biết tất cả cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai.
Biết tất cả tam thế cảnh giới, tất cả cõi cảnh giới, tất cả pháp cảnh giới, tất cả chúng sanh cảnh giới, chân như vô sai biệt cảnh giới, pháp giới vô chướng ngại cảnh giới, thật tế vô biên tế cảnh giới, hư không vô phần lượng cảnh giới, cảnh giới không cảnh giới, đều là Như Lai cảnh giới.
Bồ-tát phải biết cảnh giới thế gian là cảnh giới Như Lai, chứ không phải rời thế gian riêng có cảnh giới Như Lai. Tại sao? Bởi khi chúng ta mê thì thấy cảnh giới này là xấu xa khổ não, lúc ngộ thì cũng cảnh giới này mà thấy thanh tịnh an lành. Cảnh giới thế gian hay cảnh giới Phật gốc chỉ tại mê ngộ. Lục Tổ nói “Phật pháp tại thế gian, bất ly thế gian giác. Ly thế mịch Bồ-đề, kháp tợ tầm thố giác”. Tìm giác ngộ ngoài thế gian chẳng khác nào tìm sừng thỏ, không bao giờ có. Tất cả là cảnh giới Như Lai thì tất cả cũng là cảnh giới của mỗi người. Do chúng ta khởi phân biệt nên đổ lỗi cho cảnh giới, nếu không phân biệt thì đều là cảnh giới Như Lai.
Chư Phật tử! Như tất cả thế gian cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Như tất cả tam thế cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Nhẫn đến như cảnh giới không cảnh giới vô lượng, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng. Như cảnh giới không cảnh giới tất cả xứ không có, Như Lai cảnh giới cũng vậy, tất cả xứ không có.
Tuy nói cảnh giới mà không cảnh giới, vì sao? Vì đều là cảnh giới của tâm.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết tâm cảnh giới là Như Lai cảnh giới. Như tâm cảnh giới vô lượng vô biên vô phược vô thoát, Như Lai cảnh giới cũng vô lượng vô biên vô phược vô thoát. Vì do tư duy phân biệt như vậy như vậy, nên hiển hiện vô lượng như vậy như vậy.
Câu nói này thật rõ ràng, thật cao siêu. Tâm cảnh giới là Như Lai cảnh giới. Tâm đó vô phược, vô thoát, vô biên, vô lượng… tức chỉ tâm chân thật không hình, không tướng, do suy nghĩ phân biệt mà hình thành như vậy. Như có người ngồi tưởng chết sẽ sanh vào chỗ đẹp tốt nào, tưởng mạnh mẽ đến thành tựu thì chết sẽ sanh về cõi đó. Vậy cõi ấy từ đâu có? Từ tâm tưởng mà có. Các vị tu quán thủy đại thì để thau nước trước mặt, rồi tưởng nước dần dần tràn đầy cả thất, trùm cả khắp nhà… đến thấy nước trùm hết cả bầu trời là tưởng nước thành công. Hoặc quán màu sắc, như quán màu xanh thì để một miếng màu xanh trước mặt, thắp ngọn đèn lên ngồi tưởng màu xanh đó từ trong phạm vi nhỏ lan dần ra trùm hết cả thất, đến trùm hết cả bầu trời là được định. Như vậy nước và màu xanh có trùm hết bầu trời không? Tất cả đều do tâm tưởng mà ra. Tâm tưởng thế nào sẽ thấy thế giới sai biệt thế ấy. Nên nói, vì do tư duy phân biệt như vậy như vậy, nên hiển hiện vô lượng như vậy như vậy. Nếu tâm lặng lẽ như như thì những cảnh giới hiển hiện cũng không nhân đâu mà có.
Kinh Lăng nghiêm nói: “Nhất nhân phát chân quy nguyên, đại địa tất vô thốn thổ.” Lạ vậy, tại sao một người trở về nguồn chân thì đại địa không còn tấc đất?
Nguồn chân là nguồn chân, đại địa là đại địa, có liên quan gì nhau? Chính là chỉ cho chỗ này. Người trở về nguồn chân thì không còn tư duy theo hình tướng sai biệt không thật, nên cảnh giới trở thành không cảnh giới. Chúng ta còn vọng tưởng nên theo phân biệt mà sanh vào những cảnh giới sai khác. Kinh này chỉ rõ, do tư duy phân biệt mà pháp giới duyên khởi trùng trùng, vô lượng vô biên sai biệt. Tư duy phân biệt là duyên khởi, trở về pháp giới là tâm thanh tịnh lặng lẽ trùm khắp.
Chư Phật tử! Như đại Long vương tùy tâm tuôn mưa, mưa đó chẳng từ trong ra, chẳng từ ngoài ra. Như Lai cảnh giới cũng như vậy. Tùy ở sự tư duy phân biệt như vậy thời có vô lượng hiển hiện như vậy, ở trong mười phương đều không chỗ đến.
Cảnh giới của Phật là cảnh giới của Phật tánh, của chân tâm. Tùy theo tâm tư duy phân biệt của chúng sanh thế nào mà hiển hiện ra vô lượng vô biên như vậy. Vọng tưởng không thật thì cảnh giới hiển hiện cũng không thật. Không thật thì không thể nói từ đâu đến, đi về đâu, cũng không từ trong ra hay từ ngoài vào, chỉ là vọng tưởng thôi. Tất cả cảnh giới đều do vọng tưởng hiện, tại sao chúng ta còn mê lầm chấp thân là thật, chấp cảnh giới là thật? Đó là chúng ta không rõ lý “duy tâm sở hiện”, là mê lầm căn bản vậy.
Chư Phật tử! Như nước đại hải đều từ tâm lực của Long vương khởi ra. Biển Nhất thiết trí của chư Phật, Như Lai cũng như vậy, đều từ đại nguyện thuở xưa của Như Lai mà sanh khởi.
Như nước do tâm lực của Long vương hiện, biển Nhất thiết trí của Như Lai cũng vậy, đều do đại nguyện thuở xưa mà có.
Chư Phật tử! Biển Nhất thiết trí vô lượng vô biên bất tư nghì, chẳng thể ngôn thuyết. Nhưng nay tôi lược nói ví dụ, đại chúng nên lắng nghe.
Nam Diêm phù đề này có hai ngàn năm trăm con sông chảy vào đại hải. Tây Câu-gia-ni có năm ngàn con sông chảy vào đại hải. Đông Phất-bà đề có bảy ngàn năm trăm con sông chảy vào đại hải. Bắc Uất-đơn-việt có một vạn con sông chảy vào đại hải. Bốn châu thiên hạ có hai vạn năm trăm con sông như vậy luôn nối tiếp chảy vào đại hải, nước sông đó đã rất nhiều. Trong đại hải lại có Thập Quang Minh long vương, mưa nước nhiều gấp bội nước sông. Lại có Bá Quang Minh long vương, mưa nước nhiều gấp bội nước mưa trên. Lại có Đại Trang Nghiêm long vương, Ma-na-tư long vương, Lôi Chấn long vương, Nan-đà long vương, Bạt-nan-đà long vương, Vô Lượng Quang Minh long vương, Liên Chú Bất Đoạn long vương, Đại Thắng long vương, Đại Phấn Tấn long vương, có tám mươi ức đại long vương như vậy, đều làm mưa xuống đại hải và đều tuần tự nhiều gấp bội. Thái tử của Ta-kiệt-la long vương tên là Diêm-phù tràng, mưa xuống đại hải lại hơn gấp bội long vương trên.
Nước trong cung điện của Thập Quang Minh long vương chảy vào đại hải gấp bội nước mưa trên.
Nước trong cung điện của Bá Quang Minh long vương chảy vào đại hải lại gấp bội. Nhẫn đến cung điện của tám mươi ức đại long vương đều riêng khác và đều có nước chảy vào đại hải tuần tự gấp bội nhau.
Ta-kiệt-la long vương mưa vào đại hải nước nhiều hơn trên. Nước trong cung điện của Ta-kiệt-la long vương chảy vào đại hải lại nhiều gấp bội. Nước này màu lưu ly xanh biếc, chảy ra có giờ, do đây nên nước triều của đại hải không lỗi giờ.
Đoạn này nói tất cả nước dồn về biển nhiều gấp bội, gấp bội như vậy, để cho thấy sự dung chứa vô lượng của biển. Trong đại hải nước vô lượng, châu báu vô lượng, chúng sanh vô lượng, đại địa cũng vô lượng.
Chư Phật tử! Như vậy đại hải: nước vô lượng, châu báu vô lượng, chúng sanh vô lượng, đại địa nương dựa cũng vô lượng.
Đại hải vô lượng như vậy so với trí hải vô lượng của đức Như Lai không bằng một phần trăm, không bằng một phần ngàn, nhẫn đến không bằng một phần ưu-ba-ni-sa-đà. Chỉ tùy tâm chúng sanh mà lập ví dụ, nhưng Phật cảnh giới chẳng phải ví dụ đến được.
Kể ra sức chứa vô lượng của biển nhằm so sánh cho thấy cảnh giới của Phật không thể nghĩ bàn. Vì biển cả dù lớn đến đâu cũng nằm trong pháp hữu lượng, còn trí tuệ Phật là vô lượng. Cảnh giới của Phật là cảnh giới của Phật tánh hay chân tâm của mỗi người. Cảnh giới đó bất khả tư nghì, diệu dụng vô lượng không thể tính kể, chỉ có thể dùng các thí dụ để tạm hiểu, chứ không thể nói đến được.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết trí hải của Như Lai vô lượng, vì từ sơ phát tâm tu Bồ-tát hạnh không dứt. Phải biết bảo tụ của Như Lai vô lượng vì tất cả pháp Bồ đề phần Tam bảo chủng chẳng dứt. Phải biết chúng sanh trụ trong đó vô lượng, vì tất cả hàng hữu học vô học Thanh văn, Duyên giác thọ dụng. Phải biết trụ địa vô lượng, vì chư Bồ-tát từ sơ Hoan hỷ địa đến bậc Cứu cánh vô ngại địa ở nơi đó.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát vì nhập vô lượng trí tuệ lợi ích tất cả chúng sanh, ở nơi cảnh giới của đức Như Lai Đẳng chánh giác phải biết như vậy.
Cảnh giới của chư Phật cũng chính là cảnh giới của chúng ta, vì vậy hiểu cảnh giới của Phật là hiểu cảnh giới của mình. Chư Bồ-tát vì muốn nhập vô lượng đại trí tuệ của tất cả chúng sanh, nên ở cảnh giới của Như Lai phải biết như vậy thì mới làm lợi ích cho chúng sanh được.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Như tâm cảnh giới vô biên lượng
Chư Phật cảnh giới cũng như vậy
Như tâm cảnh giới từ ý sanh
Phật cảnh như vậy phải quán sát.
Tất cả cảnh giới của tâm đều từ ý mà có thì cảnh giới của Phật cũng như vậy.
Như long chẳng rời khỏi cung điện
Do tâm oai lực tuôn mưa lớn
Nước mưa dầu không chỗ đến đi
Tùy long tâm nên đều đầy đủ.
Thập lực Mâu-ni cũng như vậy
Không từ đâu đến chẳng đi đâu.
Nếu có tịnh tâm thời hiện thân ai
Lượng bằng pháp giới vào lỗ lông.
Như Lai không có đến đi, tịnh tâm liền hiện thân. Cũng vậy, nếu tâm chúng sanh tịnh thì thấy Như Lai hiện thân.
Lượng bằng pháp giới vào lỗ lông là sao? Nghĩa là lượng rộng mênh mông bằng pháp giới mà chui vào một lỗ chân lông. Dụ này như đoạn trước nói, quyển kinh to bằng Tam thiên Đại thiên thế giới nhét trong hạt bụi. Vì tâm không có hình tướng nên không có lớn nhỏ, nói một lỗ chân lông hay bằng cả pháp giới cũng không khác nhau, vì vậy lớn có thể dung nhỏ, nhỏ có thể nạp lớn. Tâm thanh tịnh trùm khắp, nhưng khi nào chúng ta dẹp được vọng tưởng thì khi đó mới hiện.
Như biển trân bảo vô biên lượng
Chúng sanh đại địa cũng như vậy
Thủy tánh một vị đồng không khác,
Kẻ sanh trong đó đều được lợi.
Như Lai trí hải cũng như vậy
Tất cả chỗ có đều vô lượng
Hữu học vô học trụ các địa
Đều ở trong đó được lợi ích.
Như biển có vô lượng vô biên của báu trân quý, chúng sanh ở trong đại địa cũng vậy, nếu vào được biển trí tuệ Như Lai thì đều lợi ích.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết hạnh của đức Như Lai Đẳng chánh giác như thế nào? Đại Bồ-tát phải biết vô ngại hạnh là Như Lai hạnh, phải biết chân như hạnh là Như Lai hạnh.
Trên nói trí hải của Phật, đến đây nói về hạnh của Phật. Hạnh của Phật là chỉ cho hạnh từ pháp thân lưu xuất, nên gọi là Chân như hạnh, Vô ngại hạnh.
Chư Phật tử! Như chân như tiền tế bất sanh, hậu tế bất động, hiện tại bất khởi. Như Lai hạnh cũng vậy, chẳng sanh, chẳng động, chẳng khởi.
Pháp thân thì làm gì có sanh có động có khởi, nhưng tùy theo duyên của chúng sanh, nếu cần thì liền ứng hóa thị hiện để cứu độ.
Chư Phật tử! Như pháp giới chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng, vì vô hình. Cũng vậy, Như Lai hạnh chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng, vì vô hình.
Nói về Như Lai hạnh, có hai cách giải: Một là chỉ cho hạnh của đức Phật sau khi thể nhập pháp thân, gọi là Vô công dụng hạnh. Hạnh không dụng công tức là không phân biệt suy lường chỉ tùy duyên ứng hóa để độ chúng sanh. Hai là chỉ cho Chân như hay Pháp giới tánh của chúng ta vốn chẳng sanh, chẳng động, chẳng khởi, vô hình, vô tướng, nhưng khi nào hiển hiện thì lợi ích khôn lường.
Chư Phật tử! Như chim bay ngang hư không trải qua trăm năm, chỗ đã bay qua cùng chỗ chưa bay qua đều chẳng thể lường, vì hư không giới không biên tế. Cũng vậy, Như Lai hạnh, giả sử có người trải qua trăm ngàn ức na-do-tha kiếp phân biệt diễn thuyết đã nói chưa nói đều chẳng thể lường, vì Như Lai hạnh không ngằn mé.
Như chim bay ngang hư không trăm năm, chỗ đã bay qua không thể nghĩ lường vì hư không không bờ mé. Cũng vậy, hạnh của Như Lai không chừng ngằn nên không thể phân biệt diễn nói tới được.
Chư Phật tử! Đức Như Lai Đẳng chánh giác trụ hạnh vô ngại, không có chỗ trụ mà hay khắp vì tất cả chúng sanh thị hiện công hạnh, làm cho họ thấy rồi được vượt hơn tất cả đạo chướng ngại.
Nói về duyên bên ngoài, Phật không chỗ trụ mà hay vì chúng sanh thị hiện hóa độ, nếu người có duyên lành liền thấy những điềm tốt do Phật hiện ra mà phát tâm tu hành. Nói về duyên bên trong, nếu chúng ta đã gieo trồng căn lành, khi gặp đủ duyên thì từ Phật tánh sẽ lưu xuất trí tuệ, khiến chúng ta biết rõ được những điều sai lầm của mình mà phát tâm tu hành, đó cũng là từ Như Lai hạnh dấy khởi.
Chư Phật tử! Ví như kim sí điểu vương bay trên hư không, đảo liệng chẳng đi, dùng mắt thanh tịnh quán sát trong cung điện của chư long, phấn khởi sức mạnh lấy hai cánh quạt nước biển, rẽ ra làm hai bắt rồng mạng sắp chết để ăn.
Như kim sí điểu bay trên hư không nhìn thấu tận đáy nước, biết chỗ nào có rồng mạng sắp hết, liền tới đó dùng hai cánh quạt nước rẽ ra bắt lấy để ăn.
Đức Như Lai Đẳng chánh giác cũng như vậy, hạnh vô ngại dùng Phật nhãn thanh tịnh quán sát pháp giới tất cả chúng sanh, nếu là hạng từng đã gieo thiện căn đã thành thục, dùng sức mạnh Thập lực vỗ hai cánh Chỉ Quán quạt tách nước biển tham ái sanh tử ra làm hai, mà bắt lấy để họ vào trong Phật pháp, cho họ dứt tất cả vọng tưởng hý luận, an trụ nơi hạnh vô ngại vô phân biệt của Như Lai.
Như Lai an trụ nơi hạnh vô ngại Phật nhãn quán sát chúng sanh, nếu người có thiện căn thì ngài dùng sức mạnh Thập lực, vỗ hai cánh Chỉ Quán quạt tách nước biển tham ái sanh tử ra làm hai, đem chúng sanh đó để vào trong Phật pháp, khiến cho họ dứt hết vọng tưởng hý luận, an trụ nơi hạnh vô phân biệt của Như Lai.
Đây nói sự mà không mất lý, nói lý mà không trái sự. Sự tức là những việc có hình tướng, có sức mạnh ở bên ngoài. Lý là chỉ cho những việc trong tâm tánh, không tướng mạo.
Về sự thì khi chư Phật thành đạo rồi, lúc nào các ngài cũng sẵn sàng tùy theo căn lành của chúng sanh mà cảm ứng, làm cho thuần thục. Kéo chúng sanh ra khỏi biển ái sanh tử, đưa vào Phật pháp để tất cả đều được hạnh vô ngại, vô sanh diệt.
Về lý thì chúng ta gieo trồng những căn lành, tập tu các công đức, khi nào thuần thục viên mãn thì Chân như hay Phật tánh sẽ lưu xuất trí tuệ, làm cho chúng ta thấy được sanh tử, an trụ trong Phật pháp. Tu tập như thế dần dần dứt hết vọng tưởng, trở về cảnh giới vô ngại vô sanh diệt của Như Lai, tức là thể nhập Phật tánh của chính mình.
Trong ngoài cả hai đều hữu dụng, cảm ứng lẫn nhau. Bên trong có ứng bên ngoài mới cảm, nếu trong không ứng thì bên ngoài làm sao cảm được. Thí dụ ở thế gian, có một người đến nhà khác với ý muốn nhờ vả, nên dù nói bất cứ chuyện gì họ cũng hướng câu chuyện đến việc muốn nhờ, làm sao để chủ nhà đáp ứng được mới thôi. Việc tu của chúng ta cũng vậy, biết rằng mỗi người đều có Phật tánh, nhưng khi tu nếu không có duyên bên ngoài hỗ trợ cũng khó hiển lộ. Ngoại trừ đức Phật, còn lại chúng ta không mấy người có thể tự sắp đặt được cho mình. Nhờ Phật tổ gợi nhắc lại, chúng ta mới tiến.
Như tôi, nếu không được học từ Phật tổ, từ quý thầy giảng dạy thì cũng mù mịt. Hiện tại quý thầy chỉ dạy, cộng với thiện chí tự nỗ lực cố gắng có thêm cảm ứng của chư Phật, Bồ-tát mà tiến được. Duyên ngoài là chư Phật, Bồ-tát gia hộ, quý thầy hướng dẫn. Duyên trong là sự nỗ lực của chính mình. Trong ngoài hỗ tương, đó là duyên cảm ứng. Bởi ai cũng có chân tâm, Phật tánh nhưng trước khi đến đây thì chưa biết. Nhờ được nghe lời Phật tổ chỉ dạy, mới nhận ra chân tâm, Phật tánh mình cũng sẵn có mà bị chôn vùi. Nghe hiểu rồi dốc sức tu hành dần dần đầy đủ niềm tin. Do mình cố gắng tu hành nên có được cảm ứng nơi Phật tổ, trợ giúp của thầy bạn mà đạo quả thành tựu.
Vì vậy chúng ta không thể nói tôi sẵn có chân tâm, Phật tánh như Phật, tự tôi thấy được không cần nhờ ai hết. Chúng ta cũng không nên phủ nhận cái sẵn có của mình, cứ một bề trông mong nương cậy ỷ lại Phật tổ bên ngoài. Đừng cực đoan một bên, phải sự lý viên dung mới được. Phật tổ, thầy bạn, kinh sách là sự. Chân tâm, Phật tánh sẵn có của mình là lý. Cả hai phải viên dung. Đó là chỗ tôi nhắc cho tất cả người tu học Phật pháp phải thấy tường tận, không nên nhìn một bên làm mất lý trung đạo.
Chư Phật tử! Như mặt nhật mặt nguyệt không gì sánh, riêng đi vòng giữa hư không làm lợi ích chúng sanh mà không tự nghĩ từ đâu đến và đi đến đâu.
Chư Phật Như Lai cũng như vậy, tánh vốn tịch diệt không phân biệt, thị hiện du hành khắp pháp giới, vì muốn làm lợi ích tất cả chúng sanh mà làm Phật sự không thôi nghỉ, vẫn không sanh hý luận phân biệt là ta từ đó đến rồi đi qua kia.
Chư Phật thể nhập pháp thân nên đâu đâu cũng có Phật, chẳng nơi nào chẳng có Phật, tùy duyên liền ứng hiện. Cũng vậy, chân tâm Phật tánh nơi chúng ta sẵn có, nếu duyên khế hợp thì liền ứng hiện, không nói ở đâu và đi đâu.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải dùng vô lượng phương tiện vô lượng tánh tướng như vậy, để thấy biết công hạnh của đức Như Lai Đẳng chánh giác.
Bồ-tát nên dùng những phương tiện như vậy, tánh tướng như vậy để biết công hạnh của Như Lai, chứ đừng hiểu tướng mà mất tánh, đừng hiểu tánh mà quên tướng, cả hai phải dung hợp nhau.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Ví như chân như chẳng sanh diệt
Không có nơi chỗ không thể thấy
Bậc Đại Nhiêu Ích, hạnh như vậy
Vượt hơn tam thế chẳng lường được.
Pháp giới chẳng giới, chẳng không giới
Chẳng phải hữu lượng chẳng vô lượng
Đấng Đại Công Đức hạnh cũng vậy
Chẳng lượng, vô lượng, vì vô thân.
Pháp giới không có chừng ngần, chẳng phải hữu lượng, chẳng phải vô lượng. Hạnh của Phật cũng vậy, không có hạn lượng, cũng không phải không lượng, vì vô thân. Pháp thân không có hình tướng nên nói vô thân.
Như chim bay đi ức ngàn năm
Trước sau hư không vẫn không khác
Nhiều kiếp diễn thuyết hạnh Như Lai
Đã nói chưa nói chẳng thể lường.
Điểu vương trên cao xem đại hải
Rẽ nước bắt lấy rồng để ăn
Thập Lực hay cứu người thiện căn
Khiến khỏi biển ái trừ phiền não.
Đức Phật hay cứu những người có căn lành ra khỏi biển ái, dứt trừ phiền não.
Ví như nhật nguyệt đi hư không
Chiếu đến tất cả chẳng phân biệt
Thế Tôn đi khắp cả pháp giới
Giáo hóa chúng sanh chẳng động niệm.
Thế Tôn đi khắp pháp giới để giáo hóa chúng sanh mà không động niệm, nghĩa là pháp thân như như trùm khắp pháp giới, không có dấy niệm phân biệt như phàm phu. Dấy niệm tức có động, có động tức có tướng, có tướng thì không trùm khắp pháp giới. Vô niệm là then chốt để chúng ta tu, vừa có niệm khởi là mất pháp thân.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai thành Đẳng chánh giác như thế nào?
Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai thành Đẳng chánh giác nơi tất cả nghĩa không chỗ quán sát, nơi pháp bình đẳng không chỗ nghi lầm, không hai, không tướng, không làm, không thôi, không lượng, không mé, rời xa hai bên, an trụ nơi trung đạo, vượt khỏi tất cả văn tự ngôn thuyết, biết tất cả chúng sanh tâm niệm nghĩ tưởng, căn tánh, ưa thích, phiền não nhiễm tập. Tóm lại, biết rõ tam thế tất cả pháp.
Phật thành Đẳng chánh giác nơi tất cả nghĩa không chỗ quán sát, tức là tâm không dấy động. Bởi tâm không có niệm dấy khởi sanh diệt phân biệt nên đối với pháp bình đẳng không có chỗ nghi lầm, không hai, không tướng… Nói không lượng vì đồng pháp giới, lặng lẽ như hư không thì làm sao lượng được? Vì không kẹt có không, tướng vô tướng… nên xa rời hai bên, lặng lẽ an trụ nơi trung đạo.
Khi chúng ta dấy niệm thì liền thấy có thấy không, hoặc phải quấy, nên hư, tốt xấu… Tất cả những cái thấy đó đều là thấy hai, gốc từ niệm khởi. Nếu niệm không khởi thì làm gì thấy hai, cho nên chúng ta phải khéo tu chỗ này. Xa rời hai bên, an trụ trung đạo, vượt khỏi tất cả văn tự ngữ ngôn. Từ trong chỗ lặng lẽ thanh tịnh đó mà biết rõ căn tánh, tâm niệm, nghĩ tưởng, ưa thích, phiền não, tập nhiễm… của tất cả chúng sanh. Cho đến biết rõ tất cả pháp trong ba đời, không có gì chẳng biết.
Chư Phật tử! Ví như đại hải có thể ấn hiện tất cả hình tượng sắc thân của các chúng sanh trong bốn châu thiên hạ, thế nên mọi loài đều cùng gọi là đại hải. Chư Phật Bồ-đề cũng như vậy, hiện khắp tất cả chúng sanh căn tánh ưa thích, mà không sở hiện, thế nên gọi là chư Phật Bồ đề.
Như biển xanh trong, bao nhiêu cảnh vật có hình tướng đều hiện rõ không sót. Biển cả dụ cho tâm của đức Phật. Hiện mà không sở hiện, tức là không có năng sở. Tùy sở thích của chúng sanh liền hiện ra mà không chủ ý nên không năng hiện, cũng không thấy có chúng sanh để hiện nên không sở hiện.
Chư Phật tử! Phật Bồ-đề tất cả văn tự chẳng tuyên được, tất cả âm thanh chẳng đến được, tất cả ngôn ngữ chẳng nói được, chỉ tùy chỗ sở nghi mà phương tiện khai thị.
Phật Bồ-đề tức là chỗ giác ngộ của Phật, văn tự chẳng nói được, âm thanh không đến được, vì có nói năng đều là pháp sanh diệt. Chỗ bất sanh bất diệt ấy lìa tất cả ngôn ngữ, nhưng không phải một bề im lặng như hư không, mà hay khởi diệu dụng tùy duyên phương tiện khai thị cho chúng sanh.
Chư Phật tử! Lúc đức Như Lai thành Đẳng chánh giác được thân lượng bằng tất cả chúng sanh, được thân lượng bằng tất cả pháp, được thân lượng bằng tất cả cõi, được thân lượng bằng tất cả tam thế, được thân lượng bằng tất cả Phật, được thân lượng bằng tất cả ngữ ngôn, được thân lượng bằng chân như, được thân lượng bằng pháp giới, được thân lượng bằng hư không giới, được thân lượng bằng vô ngại giới, được thân lượng bằng tất cả nguyện, được thân lượng bằng tất cả hạnh, được thân lượng bằng tịch diệt Niết-bàn giới.
Pháp thân Phật trùm khắp pháp giới, chứ không phải thân tướng như hình tượng mà chúng ta đang thờ. Vì vậy nói được thân lượng bằng hết tất cả. Thế gian có bao nhiêu pháp thì thân Phật trùm cả bao nhiêu pháp, nào là pháp giới, chúng sanh giới, hư không giới, vô ngại giới… cho đến thân lượng bằng tịch diệt Niết-bàn.
Như thân đã được, ngôn ngữ và tâm đã được cũng như vậy. Được vô lượng vô số tam luân thanh tịnh như vậy.
Đây nói tam luân là thân, ngôn ngữ và tâm. Thân bao lớn thì ngôn ngữ bao lớn, tâm cũng bao lớn, cả ba đều như nhau, đều thanh tịnh.
Chư Phật tử! Lúc đức Như Lai thành Chánh giác, ở trong thân Như Lai, thấy khắp tất cả chúng sanh thành Chánh giác. Nhẫn đến thấy khắp tất cả chúng sanh nhập Niết-bàn đều đồng một tánh.
Khi đức Phật thành Chánh giác, ở trong thân Như Lai thấy tất cả chúng sanh thành Phật, nhập Niết-bàn đều đồng một tánh. Sao lạ vậy? Bởi thành Phật là thể nhập pháp thân, mà pháp thân Phật không khác pháp thân của chúng sanh. Phật thấy được tánh Phật sẵn có thì biết tất cả chúng sanh cũng vậy, đầy đủ không thiếu thốn, nên biết tất cả chúng sanh cũng đều thành Phật, rồi cũng từ đó nhập Niết-bàn. Phật và chúng sanh không hai, không khác.
Chúng ta thấy mình còn mê, nhưng Phật thì thấy chúng ta thành Phật. Thí dụ nhà chúng ta và nhà láng giềng ở kề nhau, cả hai nhà đều được ông bà để lại cho viên ngọc quý. Chúng ta sớm biết có viên ngọc quý bèn lấy ra dùng trở thành giàu có, còn nhà láng giềng vì quên nên không lấy ra dùng. Khi đó chúng ta có dám khinh thường họ không? Hiện tại chúng ta giàu hơn nhưng không dám khinh thường, vì biết nếu họ chịu đem viên ngọc quý ra dùng thì không thua gì mình. Giàu vì biết sử dụng viên ngọc quý, nghèo vì chưa biết sử dụng mà thôi. Cũng vậy đức Phật thành Phật, ngài thấy chúng sanh cũng sẽ thành Phật, vì đồng một tánh như Phật.
Một tánh đây chính là không tất cả tánh. Không những tánh gì? Không tánh tướng, không tánh tận, không tánh sanh, không tánh diệt, không tánh ngã, không tánh phi ngã, không tánh chúng sanh, không tánh phi chúng sanh, không tánh Bồ-đề, không tánh pháp giới, không tánh hư không, cũng lại không tánh thành Chánh giác. Vì biết tất cả pháp đều không tánh nên được nhất thiết trí đại bi tương tục cứu độ chúng sanh.
Một tánh chính là không tất cả tánh. Đây là chỗ then chốt của Đại thừa. Đọc đến đoạn này chúng ta mới thấy tầm quan trọng của Trung Quán Luận. Trung Quán Luận cũng cốt chỉ cho thấy tất cả pháp không tánh. Biết tất cả pháp không tánh tức biết được tánh bình đẳng của Như Lai. Đây là chỗ đức Phật đã thể nhập. Nếu chúng ta muốn thể nhập được tánh đó thì phải thấy các pháp đều là duyên hợp, không tánh. Không tánh là không những tánh gì? Không tánh tướng, không tánh tận, không tánh sanh, không tánh diệt v.v… Do biết các pháp không tánh nên được Nhất thiết trí đại bi hay cứu độ chúng sanh.
Chư Phật tử! Ví như hư không, tất cả thế giới hoặc thành hoặc hoại, hư không thường chẳng thêm bớt, vì hư không vốn vô sanh. Chư Phật Bồ-đề cũng như vậy, hoặc thành Chánh giác hay chẳng thành Chánh giác cũng không tăng giảm. Vì Bồ-đề vốn không tướng, không phi tướng, không một, không nhiều.
Chư Phật tử! Giả sử có người hay hóa làm hằng hà sa tâm, mỗi mỗi tâm lại hóa làm hằng hà sa Phật đều không sắc, không hình, không tướng. Hóa như vậy tột hằng hà sa kiếp không thôi nghỉ. Này chư Phật tử. Các ngài nghĩ thế nào? Người đó hóa tâm, hóa Phật, có tất cả là bao nhiêu?
Như Lai Tánh Khởi Diệu Đức Bồ-tát nói: Như theo tôi hiểu nghĩa của Ngài nói, thời hóa cùng chẳng hóa đồng nhau không khác. Sao lại hỏi là có bao nhiêu?
Pháp do biến hóa làm sao thật được! Do không tánh nên hóa cùng chẳng hóa bình đẳng như nhau. Thấy các pháp đều là duyên hợp không thật, như huyễn, như hóa thì tâm không còn chấp. Vì Bồ-đề vốn không tướng, không phi tướng, không một, không nhiều, nên thành Phật hay không thành Phật, tánh cũng không tăng giảm.
Phổ Hiền Bồ-tát nói: Lành thay! Lành thay! Đúng như lời Ngài nói. Giả sử tất cả chúng sanh ở trong một niệm đều thành Chánh giác cùng chẳng thành Chánh giác, đồng nhau không khác. Vì Bồ-đề không có tướng. Nếu không tướng thời không tăng không giảm. Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết như vầy: Thành Đẳng chánh giác đồng với Bồ-đề một tướng không tướng.
Trong một niệm không có sai biệt thì thành Phật hay không thành Phật cũng như nhau, không khác. Nếu thấy niệm trước mê niệm sau giác, hay niệm trước giác niệm sau mê thì mới có sai khác. Tâm thể của chúng sanh sở dĩ có sai biệt là do nhiều niệm dấy khởi, nếu không có niệm thứ hai thì dứt sai khác, ngay đó thành Phật.
Khi tâm vọng dấy liền có hình ảnh hiện ra, dứt vọng không nghĩ thì tâm thanh tịnh, vì vậy một tướng mà không tướng. Nên nói, thành Đẳng chánh giác đồng với Bồ-đề một tướng không tướng.
Lúc đức Như Lai thành Đẳng chánh giác dùng phương tiện nhất tướng nhập tam-muội Thiện giác trí. Nhập rồi ở một thân quảng đại thành Chánh giác hiện thân bằng số tất cả chúng sanh trụ ở trong thân. Như một thân quảng đại thành Chánh giác, tất cả thân quảng đại thành Chánh giác đều như vậy cả.
Lúc đức Phật thành Phật, ngài dùng phương tiện Nhất tướng nhập tam-muội Thiện giác trí. Tướng mà không tướng nên ở một thân quảng đại thành Chánh giác, gọi là nhập pháp thân. Bởi dùng một tướng giác mà không có tất cả tướng như thế gian thấy, nên nói hiện thân bằng số tất cả chúng sanh trụ ở trong thân, bao nhiêu thân chúng sanh đều nằm trong thân của mình. Tất cả thân quảng đại thành Chánh giác đều như vậy, tức là tất cả pháp thân đồng như nhau.
Chư Phật tử!Đức Như Lai có vô lượng môn thành Chánh giác như vậy, vì thế phải biết đức Như Lai hiện thân vô lượng. Vì vô lượng nên nói thân Như Lai là vô lượng giới đồng với chúng sanh giới.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết thân Như Lai trong một lỗ lông có thân chư Phật bằng số tất cả chúng sanh. Vì đức Như Lai thành Đẳng chánh giác rốt ráo không sanh diệt. Như một lỗ lông khắp pháp giới, tất cả lỗ lông cũng đều như vậy. Phải biết chẳng có một chút chỗ nào là không có thân Phật. Vì đức Như Lai thành Đẳng chánh giác không chỗ nào chẳng đến. Tùy sở năng, tùy thế lực, ở dưới cây Bồ-đề đạo tràng trên tòa sư tử, hiện nhiều thân thành Đẳng chánh giác.
Khi thành Phật trong một lỗ chân lông của Phật có chư Phật nhiều bằng tất cả số chúng sanh, chỉ một lỗ chân lông khắp pháp giới, tất cả lỗ chân lông cũng đều như vậy. Như thân tứ đại của chúng ta có bao nhiêu lỗ chân lông, mỗi lỗ chân lông đều không rời thân mình nên cùng có cảm giác giống nhau, vì vậy động tới nơi nào cũng có cảm giác đau, nhưng cảm giác đau đó không có hình tướng. Đây là tạm căn cứ trên hình ảnh để chỉ chỗ thâm sâu của pháp thân.
Pháp thân là tánh giác của chư Phật, mà pháp thân thì trùm khắp không chỗ nào không có, nên trong một lỗ chân lông có vô số Phật, nơi nào cũng có Phật.
Pháp thân cũng là tâm không sanh không diệt của tất cả chúng sanh. Khi chúng sanh không còn niệm sanh diệt, chỉ toàn một tánh giác thanh tịnh trùm khắp thì gọi là pháp thân. Hằng sống với tánh giác ấy gọi là vô thượng Bồ-đề hay Chánh đẳng Chánh giác.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết tâm mình, niệm niệm thường có Phật thành Chánh giác. Vì chư Phật Thế Tôn chẳng rời tâm này mà thành Chánh giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng đều như vậy, đều thường có Như Lai thành Đẳng chánh giác, rộng lớn cùng khắp không chỗ nào chẳng có, chẳng rời, chẳng dứt, không thôi nghỉ, nhập pháp môn phương tiện bất tư nghì.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai thành Đẳng chánh giác như vậy.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Chánh giác biết rõ tất cả pháp
Không hai, lìa hai đều bình đẳng
Tự tánh thanh tịnh như hư không
Ngã cùng phi ngã chẳng phân biệt.
Như biển ấn hiện thân chúng sanh
Do đây gọi biển là đại hải
Bồ-đề ấn khắp các tâm hành
Vì thế nên gọi là Chánh giác.
Ví như thế giới có thành hoại
Mà ở hư không chẳng thêm bớt
Tất cả chư Phật hiện thế gian
Bồ-đề một tướng thường không tướng.
Như người hóa tâm, hóa làm Phật
Hóa cùng chẳng hóa tánh không khác
Tất cả chúng sanh thành Bồ-đề
Thành cùng chẳng thành không tăng giảm.
Phật có tam-muội tên Thiện giác
Dưới cây bồ-đề nhập định này
Phóng vô lượng quang bằng chúng sanh
Khai ngộ quần sanh như sen nở.
Như tam thế kiếp sát, chúng sanh
Có những tâm niệm và căn, dục
Thân bằng số ấy đều hiện ra
Nên Chánh giác gọi là vô lượng.
Khi tu phải biết tâm mình niệm niệm thành Đẳng chánh giác. Chỗ này chính là niệm trước mê là chúng sanh, niệm sau giác là Phật. Mỗi niệm đều giác tức là thành Phật. Nghĩ người này tốt kẻ kia xấu, niệm đó là mê. Cho nên người biết tu là tu trong từng tâm niệm, chứ không phải đợi đến giờ tụng kinh ngồi thiền mới tu. Làm sao mỗi niệm mình đều biết chuyển niệm mê thành niệm giác, niệm mê dấy lên không theo thì niệm giác hiện tiền. Nếu cứ bám vào hình thức thời khóa mà mê chấp không rời thì dù công phu đến mấy cũng vẫn mê. Ngồi thiền để cho mình mạnh khỏe sống lâu, mong phát quang thấy được tâm niệm của chúng sanh… đó là mê.
Nhận được tâm mình niệm niệm không mê, tức thường có Phật thành Chánh giác, vì chư Phật chẳng rời tâm này mà thành Chánh giác. Như tâm mình, tâm của tất cả chúng sanh cũng vậy, đều thường có Như Lai thành Đẳng chánh giác.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai Đẳng chánh giác chuyển pháp luân như thế nào?
Đại Bồ-tát phải biết như vầy: Đức Như Lai dùng sức tâm tự tại không khởi không chuyển mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp thường không khởi. Dùng ba thứ chuyển dứt chỗ đáng dứt mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp lìa biên kiến. Lìa dục tế phi tế mà chuyển pháp luân. Vì nhập tất cả pháp hư không tế. Không có ngôn thuyết mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp chẳng thể nói. Rốt ráo tịch diệt mà chuyển pháp luân, vì biết tất cả pháp là tánh Niết-bàn. Dùng tất cả văn tự, tất cả ngữ ngôn mà chuyển pháp luân, vì âm thanh của Như Lai không chỗ nào chẳng đến. Biết tiếng như vang mà chuyển pháp luân, vì rõ tánh chân thật của các pháp. Trong một âm thanh phát ra tất cả âm thanh mà chuyển pháp luân, vì rốt ráo không chủ. Không sót không hết mà chuyển pháp luân, vì trong ngoài không nhiễm trước.
Chư Phật tử! Ví như tất cả văn tự ngữ ngôn tột kiếp vị lai nói chẳng hết được. Phật chuyển pháp luân cũng như vậy, tất cả văn tự an lập hiển thị không thôi nghỉ không cùng tận.
Chư Phật tử! Như Lai pháp luân đều nhập tất cả ngữ ngôn văn tự mà không chỗ trụ. Ví như viết chữ vào khắp tất cả sự, tất cả lời, tất cả toán số, tất cả chỗ thế gian và xuất thế gian mà không chỗ trụ.
Âm thanh của đức Như Lai cũng như vậy, vào khắp tất cả xứ tất cả chúng sanh, tất cả pháp, tất cả nghiệp, tất cả báo, mà không chỗ trụ.
Các thứ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh đều chẳng rời pháp luân của đức Như Lai, vì thật tướng của ngôn âm chính là pháp luân vậy. Con
Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai chuyển pháp luân như vậy.
Nghe ngôn âm biết ngôn âm là không thật, không chấp theo ngôn âm thì nghe tiếng gì cũng là pháp luân, ở đâu cũng là Phật pháp. Vì các thứ ngữ ngôn của tất cả chúng sanh đều chẳng rời pháp luân của Như Lai, thật tướng của ngôn âm chính là pháp luân.
Lại nữa, chư Phật tử! Đại Bồ-tát muốn biết đức Như Lai chuyển pháp luân, thời phải biết chỗ xuất sanh pháp luân của đức Như Lai.
Chư Phật tử! Đức Như Lai tùy theo tâm hành dục lạc vô lượng sai khác của tất cả chúng sanh, phát ra ngần ấy âm thanh mà chuyển pháp luân.
Trước là nói tướng chuyển pháp luân của Như Lai, đến đây nói nhân chuyển pháp luân từ đâu mà xuất sanh.
Tâm của Như Lai rỗng rang tự tại, tùy theo tâm hành dục lạc vô lượng sai biệt của chúng sanh mà phát ra âm thanh chuyển pháp luân, chứ không có một pháp cố định để chuyển pháp luân.
Chư Phật tử! Đức Như Lai có tam-muội tên là Cứu cánh vô ngại vô úy. Nhập tam-muội này rồi, ở mỗi mỗi thân mỗi mỗi miệng thành Đẳng chánh giác, đều phát ra ngôn âm bằng số tất cả chúng sanh. Trong mỗi mỗi ngôn âm đầy đủ các ngôn âm đều riêng khác mà chuyển pháp luân, làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ.
Người biết được đức Như Lai chuyển pháp luân như vậy, phải biết người này đã tùy thuận tất cả Phật pháp. Không biết như vậy thời chẳng phải là tùy thuận.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết đức Phật chuyển pháp luân như vậy, vì vào khắp vô lượng chúng sanh giới.
Như Lai pháp luân không sở chuyển
Tam thế vô khởi cũng vô đắc
Như văn tự không thời gian hết
Y Thập lực pháp luân cũng như vậy.
Như chữ vào khắp mà không đến
Chánh giác pháp luân cũng như vậy
Vào các ngôn âm không chỗ vào
Hay khiến chúng sanh đều hoan hỷ,
Phật có tam-muội tên Cứu cánh
Nhập định này rồi mới thuyết pháp
Tất cả chúng sanh vô lượng biên
Khắp pháp ngôn âm khiến tỏ ngộ.
Trong mỗi ngôn âm lại còn diễn
Vô lượng ngôn âm đều sai khác
Thế gian tự tại vô phân biệt
Tùy họ sở thích khắp khiến nghe,
Văn tự chẳng từ trong ngoài ra
Cũng chẳng hư mất, không chứa nhóm
Mà vì chúng sanh chuyển pháp luân
Tự tại như vậy rất kỳ đặc.
Sở dĩ đức Phật nói pháp ai nghe cũng đều vui thích vì ngài nhập trong tam-muội Cứu cánh vô ngại vô úy, thân miệng đều thành Chánh giác đồng phát ra ngôn âm đến với chúng sanh, khiến cho tất cả đều được nghe, đều được hoan hỷ. Người nào biết được Phật chuyển pháp luân như vậy, người ấy đã tùy thuận tất cả Phật pháp. Nếu không biết như vậy thì người ấy không biết tùy thuận Phật pháp.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai Đẳng chánh giác nhập Niết-bàn như thế nào?
Đại Bồ-tát muốn biết đại Niết-bàn của đức Như Lai, cần phải biết rõ căn bản tự tánh. Như chân như Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như thật tế Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như pháp giới Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như hư không Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như pháp tánh Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như ly dục tế Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như vô tướng tế Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như ngã tánh tế Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như Nhất thiết pháp tánh tế Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Như chân như tế Niết-bàn, Như Lai Niết-bàn cũng như vậy. Vì Niết-bàn vô sanh vô xuất. Nếu pháp vô sanh vô xuất thời vô diệt.
Chư Phật tử! Như Lai chẳng vì Bồ-tát mà nói chư Phật cứu cánh Niết-bàn, cũng chẳng vì Bồ-tát mà thị hiện việc ấy. Vì muốn cho Bồ-tát thấy tất cả Như Lai thường ở trước, ở trong một niệm thấy tất cả chư Phật quá khứ, vị lai sắc tướng viên mãn đều như hiện tại, cũng chẳng móng tưởng là hai chẳng hai. Vì đại Bồ-tát đã lìa hẳn tưởng chấp.
Niết-bàn của Phật bất sanh bất diệt, như hư không, như chân như, như thực tế. Đối với Bồ-tát sở dĩ đức Phật không muốn nói nhập Niết-bàn và cũng không thị hiện nhập Niết–bàn, vì muốn tất cả Bồ-tát đều biết rõ chư Phật không rời tâm niệm của mình mà có. Chỉ vì còn móng tưởng thấy hai nên không thấy Phật, nếu lìa tưởng hai bên thì liền thấy Phật.
Chư Phật Như Lai vì muốn làm cho chúng sanh có lòng mến thích nên xuất hiện ra đời. Vì muốn chúng sanh luyến mộ mà thị hiện Niết-bàn. Nhưng thật ra đức Như Lai không có xuất thế cũng không Niết-bàn. Vì đức Như Lai thường trụ thanh tịnh pháp giới, tùy theo tâm của chúng sanh mà thị hiện Niết-bàn.
Sở dĩ đức Phật ra đời là vì chúng sanh, cho đến Phật muốn nhập Niết-bàn cũng là vì chúng sanh. Chúng sanh khi sanh ra thì mừng, lúc mất đi thì tiếc, ngay như chúng ta hiện tại, đến ngày Phật đản thì vui, ngày Phật nhập Niết-bàn thì buồn. Tâm lý chung là vậy. Do đó vì muốn chúng sanh vui mừng nên Phật thị hiện ra đời, để chúng sanh luyến tiếc nên ngài nhập Niết-bàn. Tại sao lại để cho chúng sanh luyến tiếc? Bởi chúng ta có tật lười biếng, ỷ lại. Nếu Phật còn ở đời hoài thì mình đâu chịu tu, ngài nhập Niết-bàn để chúng ta không ỷ lại mà cố gắng tu tập.
Như có nhiều người hay nói, bây giờ kinh sách thiếu gì, quý thầy giảng pháp thiếu gì, mình cứ lo làm ăn chừng nào rảnh thì tu. Vì vậy đức Phật khéo làm cho chúng sanh luyến tiếc, để họ nỗ lực lên, chứ thật ra Như Lai thường trụ thanh tịnh pháp giới, không có xuất thế cũng không Niết-bàn, chỉ tùy theo tâm của chúng sanh mà thị hiện.
Chư Phật tử! Ví như mặt nhật mọc chiếu sáng khắp tất cả thế gian, trong tất cả đồ đựng nước trong sạch đều có bóng mặt nhật hiện, cùng khắp các xứ mà vẫn không có đến đi. Nếu có một đồ đựng bị bể thời chẳng hiện bóng mặt nhật. Đây không phải lỗi ở mặt nhật mà do đồ đựng nước bị bể.
Như Lai trí cũng như vậy, hiện khắp pháp giới không trước không sau. Trong tâm thanh tịnh của tất cả chúng sanh đức Như Lai đều hiện. Tâm thường thanh tịnh thời thường thấy thân Phật. Nếu tâm ô trược, hư bể thời không thấy Như Lai.
Những lời nói này thật chí lý rõ ràng không có gì ngờ vực. Mặt trời hiện trên không chiếu soi khắp cả, tùy món đồ đựng thế nào mà nhìn thấy hoặc không nhìn thấy mặt trời hiện. Nếu đồ đựng nước bị bể thì không thấy, đồ đựng lành chứa nước trong thì thấy mặt trời hiện bóng rõ ràng. Cũng vậy, Phật thường hiện khắp pháp giới không trước không sau, tâm thanh tịnh thấy Phật hiện, còn tâm vọng tưởng nhiễm ô chấp trước thì không thấy Phật. Như vậy Phật hiện thân đó là Phật pháp thân, do tâm mình thanh tịnh mà hiện ra chứ không phải hóa thân Phật Thích-ca ở Ấn Độ đến để thị hiện.
Chư Phật tử! Nếu có chúng sanh nên do Niết-bàn mà được độ thời dức Như Lai vì họ mà thị hiện Niết-bàn. Nhưng thật ra đức Như Lai không sanh, không mất, không có diệt độ.
Ví như hỏa đại nơi tất cả thế gian hay làm thành lửa. Hoặc có lúc ở một xứ lửa tắt. Nhưng chẳng phải lửa ở tất cả thế gian đều tắt. Đức Như Lai Đẳng chánh giác cũng như vậy, ra làm Phật sự ở tất cả thế giới. Hoặc ở một thế giới việc làm đã xong hiện nhập Niết-bàn, há lại tất cả thế giới chư Phật Như Lai đều diệt độ.
Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai Đẳng chánh giác đại Niết-bàn như vậy.
Ở trên nói tâm chúng sanh thanh tịnh thì Phật hiện, Phật đó là Phật tự tâm, tức nói về lý. Đây nói về sư, đức Phật tùy duyên mà hóa độ, nếu cõi nào đủ duyên được độ thì Phật hiện ra cõi đó, hết duyên Phật đi chỗ khác. Như lửa ở từng nhà, nhà này hết dầu lửa tắt, nhà khác còn dầu thì còn lửa. Hết lửa ở từng nhà từng vùng, chứ không phải tất cả nơi đều hết lửa. Cũng vậy, không có Phật ở chỗ này chứ không phải tất cả cõi đều không có Phật.
Lại nữa, chư Phật tử! Ví như thuật sĩ giỏi biết huyễn thuật, dùng sức huyễn thuật ở trong tất cả cõi nước, thành ấp, tụ lạc nơi Đại thiên thế giới mà thị hiện huyễn thân, dùng sức huyễn giữ còn đến cả kiếp. Hoặc ở một xứ huyễn sự đã xong bèn ẩn thân chẳng hiện. Nhưng chẳng phải tất cả xứ đều ẩn thân.
Đức Như Lai Đẳng chánh giác cũng như vậy, giỏi biết vô lượng trí tuệ phương tiện các thứ huyễn thuật, hiện thân khắp tất cả pháp giới, giữ gìn còn mãi tột thuở vị lai. Hoặc ở một xứ, tùy tâm của chúng sanh việc làm đã xong bèn thị hiện nhập Niết-bàn.
Há lại vì ở một xứ đức Phật nhập Niết-bàn bèn cho rằng tất cả Phật đều diệt độ.
Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai Đẳng chánh giác đại Niết-bàn như vậy.
Đây dùng huyễn thuật để thí dụ, như người giỏi về huyễn thuật, dùng huyễn thuật hiện thân trong tất cả cõi nước, khi nào việc huyễn đã xong thì ẩn thân không còn thấy nữa. Thân tướng của đức Phật ở cõi Diêm-phù-đề là hóa thân, lúc việc làm đã xong, thị hiện hóa thân diệt Phật nhập Niết-bàn, nhưng không phải ở một nơi đức Phật diệt độ rồi tưởng rằng tất cả nơi đều không có Phật.
Lại nữa, chư Phật tử! Lúc đức Như Lai Đẳng chánh giác thị hiện Niết-bàn, bèn nhập Bất động tam-muội. Nhập tam-muội này rồi, ở mỗi mỗi thân Phật đều phóng vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha đại quang minh. Mỗi mỗi quang minh đều hiện vô số hoa sen. Mỗi mỗi hoa sen đều có bất khả thuyết nhị hoa diệu bảo. Mỗi mỗi nhị hoa đều có tòa sư tử. Trên mỗi mỗi tòa đều có đức Như Lai ngồi kiết già. Số thân Phật bằng với số tất cả chúng sanh, đều đủ mọi sự công đức trang nghiêm thượng diệu, từ bản nguyện lực mà sanh khởi.
Nếu có chúng sanh thiện căn thành thục, thấy thân Phật rồi đều thọ hóa. Nhưng thân Phật kia tột vị lai tế rốt ráo an trụ tùy nghi hóa độ tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời.
Phật nhập tam-muội Bất động, tức nhập pháp thân. Từ tam-muội đó phóng ra quang minh vô lượng, khởi lên trí tuệ tùy duyên ứng hóa để độ hằng hà sa số chúng sanh. Mỗi mỗi chúng sanh, do thiện căn thành thục đều nhận của Phật. Nếu chúng sanh thiện căn thành thục, thấy thân Phật rồi đều nhận sự giáo hóa của ngài.
Chư Phật tử! Thân của đức Như Lai không có phương xứ, chẳng thật chẳng hư, chỉ do bản thệ nguyện lực của chư Phật, hễ chúng sanh đáng được độ thời bèn xuất hiện.
Đại Bồ-tát phải biết đức Như Lai Đẳng chánh giác đại Niết-bàn như vậy.
Pháp thân Phật trùm khắp tất cả, không có nơi chốn, không thật, không hư, Chỉ do nguyện lực độ chúng sanh, nên Phật dùng hóa thân và báo thân tùy theo căn cơ mà thị hiện.
Chư Phật tử! Đức Như Lai trụ nơi vô lượng vô ngại cứu cánh pháp giới, hư không giới, chân như, pháp tánh, vô sanh, vô diệt và thật tế, vì các chúng sanh mà tùy thời thị hiện. Do bản nguyện giữ gìn nên không thôi nghỉ. Chẳng bỏ tất cả chúng sanh, tất cả cõi, tất cả pháp.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn rõ lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Mặt nhật phóng sáng chiếu thế gian
Đồ hư nước lọt bóng liền mất
Tối thắng Thế Tôn cũng như vậy
Chúng sanh không tin thấy nhập diệt.
Như hỏa đại thành lửa thế gian
Hoặc một thành ấp có lúc tắt
Tối thắng Thế Tôn khắp pháp giới
trong hiện nhập diệt.
Xứ giáo hóa xong hiện nhập diệt.
Thuật sĩ hiện thân tất cả cõi
Chỗ việc đã xong thời ẩn thân
Như Lai hóa xong cũng như vậy
Ở cõi nước khác thường thấy Phật.
Phật có tam-muội tên Bất động
Hóa chúng sanh rồi nhập định này
Một niệm thân phóng vô lượng quang Quang
Quang hiện liên hoa, hoa có Phật.
Phật thân vô số khắp pháp giới
Chúng sanh có phước thời được thấy
Như vậy vô số mỗi mỗi thân
Thọ mạng trang nghiêm đều đầy đủ.
Như tánh vô sanh, Phật xuất thế
Như tánh vô diệt, Phật Niết-bàn
Ngôn từ ví dụ thảy đều dứt
Tất cả nghĩa thành không cùng sánh.
Pháp thân Phật không sanh không diệt, tùy duyên ứng hiện độ chúng sanh. Bản nguyện của Phật không bao giờ mất, cũng không dừng nghỉ, chẳng bỏ một chúng sanh hay một cõi giới nào. Vì vậy chúng ta đừng lo không có Phật, mà chỉ lo tâm mình ô trược không thấy Phật.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát phải biết ở chỗ đức Như Lai Đẳng chánh giác, thấy nghe thân cận gieo trồng thiện căn như thế nào?
Đại Bồ-tát phải biết ở chỗ đức Như Lai, thấy nghe gần gũi gieo trồng thiện căn thảy đều chẳng luống, vì xuất sanh vô tận giác tuệ, vì rời tất cả chướng nạn, vì quyết định đến nơi cứu cánh, vì không hư dối, vì tất cả nguyện viên mãn, vì chẳng hết hạnh hữu vi, vì tùy thuận trí vô vi, vì sanh Phật trí, vì tột vị lai tế, vì thành thắng hạnh nhất thiết chủng, vì đến vô công dụng trí địa.
Thân Như Lai cũng chính là pháp thân của mỗi người chúng ta. Nếu biết hướng trở về pháp thân, thể nhập được pháp thân thì đều có lợi ích vô vi, tức thoát ngoài hạnh sanh diệt hữu vi. Đó là lợi ích của trí tuệ bất sanh bất diệt.
Chư Phật tử! Ví như trượng phu ăn chút ít chất kim cang trọn không tiêu, tất phải xuyên lủng thân lọt ra ngoài. Vì chất kim cang chẳng cùng ở chung với nhục thân tạp uế. Nơi đức Như Lai, gieo một ít căn lành cũng như vậy, tất phải xuyên thấu tất cả phiền não hữu vi hạnh, đến nơi trí vô vi cứu cánh. Vì chút thiện căn này chẳng cùng ở chung với những hữu vi hạnh phiền não.
Chư Phật tử! Giả sử cỏ khô chất đống lớn bằng núi Tu-di, ném vào cỏ một đốm lửa nhỏ tất sẽ cháy hết cả. Vì lửa hay cháy vậy. Nơi đức Như Lai, gieo một ít thiện căn cũng như vậy, tất hay cháy hết tất cả phiền não rốt ráo đến Vô dư Niết-bàn. Vì chút thiện căn tánh rốt ráo vậy.
Pháp thân vô vi bất sanh bất diệt, nên khi gieo một chút căn lành nơi pháp thân thì liền dứt được phiền não hữu vi. Vì vô vi không kẹt mắc, không cùng hợp với hữu vi, thẳng đến chỗ dứt sạch phiền não. Như chất kim cang có thể xuyên thủng qua thân, vì chất kim cang chẳng cùng ở chung với nhục thân tạp uế. Công đức vô vi tuy không thể thấy mà hơn tất cả, còn hữu vi thì thấy nhiều nhưng là pháp sanh diệt, không lâu dài.
Thế nào là công đức hữu vi? Thế nào là công đức vô vi? Thí dụ chúng ta phát tâm đắp tượng Phật bằng vàng, tốn khá nhiều tiền của và tâm huyết, tuy có công đức nhiều nhưng thuộc về hữu vi, bởi chỉ thấy Phật bằng hình tướng bên ngoài. Nếu người biết hướng tâm tu tập, luôn dùng trí quán chiếu dẹp trừ phiền não, thể nhập pháp thân thanh tịnh. Việc làm này không ai thấy, không ai tán thán khen ngợi, chỉ tự mình biết nhưng công dụng rất lớn, vì thuộc về công đức vô vi.
Chư Phật tử! Ví như núi Tuyết có cây Dược vương tên là Thiện Kiếp. Nếu ai được thấy thời cặp mắt được thanh tịnh. Nếu ai được nghe thời tại được thanh tịnh. Nếu ai được ngửi thời mũi được thanh tịnh. Nếu ai được nếm thời lưỡi được thanh tịnh. Nếu ai được chạm đến thời thân thanh tịnh. Nếu có ai lấy đất nơi gốc cây ấy, cũng có thể dùng để trị bệnh được.
Đức Như Lai Đẳng chánh giác cũng như vậy, có thể làm tất cả sự lợi ích cho chúng sanh. Nếu có ai thấy sắc thân Như Lai thời mắt được thanh tịnh. Nếu ai được nghe danh hiệu Phật thời tai được thanh tịnh. Nếu ai ngửi được giới hương Như Lai thời mũi được thanh tịnh. Nếu ai nếm được pháp vị của Như Lai thời lưỡi được thanh tịnh, đủ tướng rộng dài, hiểu pháp ngữ ngôn. Nếu ai được chạm đến quang minh của Như Lai thời thân được thanh tịnh rốt ráo được pháp thân vô thượng. Nếu ai nhớ niệm đức Như Lai thời được niệm Phật tam-muội thanh tịnh. Nếu ai cúng dường chỗ đất của đức Như Lai đi qua và tháp miếu thờ Phật cũng được đủ thiện căn, trừ diệt tất cả họa phiền não, được vui của hiền thánh.
Như cây Dược vương trên núi Tuyết, nếu ai chạm tới thì sáu căn đều thanh tịnh. Cũng vậy, đức Phật hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, người nghe thấy thì sáu căn liền thanh tịnh, người gieo căn lành nơi Phật trọn được kết quả tốt đẹp. Nơi mỗi người chúng ta, nếu chịu xoay trở lại pháp thân thì sáu căn của mình cũng thanh tịnh, cũng có lợi ích.
Chư Phật tử! Nay tôi nói với các ngài, mặc dầu có chúng sanh vì nghiệp chướng che đậy nên thấy nghe nơi Phật mà chẳng có lòng mến tin, vẫn cũng gieo được căn lành không luống uổng, nhẫn đến rốt ráo nhập Niết-bàn.
Dù thấy nghe Phật mà không có lòng tin vẫn có căn lành. Như Bồ-tát Thường Bất Khinh gieo căn lành cho người, gặp ai ngài cũng chắp tay xá nói: “Tôi không dám khinh các ngài, các ngài đều sẽ thành Phật.” Khi nói như thế có những người không tin Phật, họ lấy cây, lấy gậy đánh đập ngài. Thế nhưng sau khi ngài thành Phật, những người xưa kia được gieo căn lành đều gặp lại, nghe kinh Pháp Hoa và được thọ ký thành Phật.
Đại Bồ-tát phải biết ở nơi đức Như Lai, thấy nghe gần gũi gieo trồng căn lành như vậy, đều lìa tất cả pháp bất thiện, đầy đủ thiện pháp.
Nếu ở nơi đức Phật gieo trồng căn lành rồi thì nhất định những pháp ác được xa lìa, pháp lành đầy đủ. Gieo căn lành nơi Phật có hai cách: Một là gieo căn lành nơi Phật báo thân và hóa thân. Hai là gieo căn lành nơi Phật pháp thân. Phật báo thân thì hiện tại chúng ta không được gặp, còn Phật hóa thân thuộc sanh diệt không thật, nên căn lành thuộc về hữu vi. Phật pháp thân chúng ta sẵn có, nếu ai nhận ra đều có thể gieo được căn lành, vì đó là Phật của chính mình.
Chư Phật tử! Đức Như Lai dùng tất cả ví dụ nói nhiều sự, không có ví dụ nào nói được pháp này. Vì bất tư nghì, đường tâm trí tuyệt vậy. Chư Phật, chư Bồ-tát chỉ tùy tâm của chúng sanh khiến họ hoan hỷ mà nói ví dụ, chứ chẳng phải là rốt ráo.
Đoạn này ca ngợi tán thán pháp. Vậy pháp này là pháp gì? Là pháp môn của tự tâm, là pháp thân của chính mình. Có vị giảng sư đến gặp một thiền sư, thiền sư hỏi: “Kinh Hoa Nghiêm lấy gì làm tông?” Đáp: “Lấy Pháp giới làm tông.” Pháp giới không có chỗ nương cũng như hư không, pháp đó bặt suy nghĩ vì không có chỗ suy tư nghĩ bàn, không phải trí có thể tính toán đo lường mà biết, chỉ khi nào bặt tâm tư, lặng vọng tưởng mới khế hợp được.
Trong đây những phần thí dụ thuộc về quyền chứ không phải thật, tức tạm dùng phương tiện để cho người hiểu, chúng ta đừng lầm tưởng là chân lý.
Pháp môn này gọi là chỗ bí mật của đức Như Lai, gọi là chỗ mà tất cả thế gian chẳng biết được, gọi là nhập Như Lai ấn, gọi là khai cửa đại trí, gọi là thị hiện chủng tánh Như Lai, gọi là thành tựu tất cả Bồ-tát, gọi là tất cả thế gian không làm hư hoại được, gọi là một bề tùy thuận cảnh giới Như Lai, gọi là hay thanh tịnh tất cả chúng sanh giới, gọi là diễn thuyết Như Lai căn bản thật tánh pháp bất tư nghì rốt ráo.
Pháp môn này chỉ cho pháp thân của chư Phật hay chân tâm của tất cả chúng sanh, pháp đó không hình tướng, không sanh diệt. Nếu người tùy thuận pháp môn bất tư nghì này thì liền được thanh tịnh, vì vậy gọi là căn bản thật tánh pháp bất tư nghì rốt ráo.
Chư Phật tử! Pháp môn này đức Như Lai chẳng nói với những chúng sanh khác. Chỉ nói với chư Bồ-tát xu hướng Đại thừa, chỉ nói với chư Bồ-tát ngồi nơi bất tư nghì thừa. Pháp môn này chẳng vào tay của tất cả chúng sanh khác, chỉ trừ chư đại Bồ-tát.
Những người hay phát Bồ-đề tâm mới thâm hiểu được pháp môn này, còn người xu hướng Tiểu thừa hay quả báo nhân thiên thì khó có thể vào được.
Chư Phật tử! Ví như Chuyển luân thánh vương có bảy báu. Nhân bảy báu này mà hiển bày Luân vương. Bảy báu này chẳng vào tay chúng sanh khác chỉ trừ Thái tử do Đệ nhất phu nhân sanh, đầy đủ trọn vẹn các tướng thánh vương. Nếu Chuyển luân thánh vương không có Thái tử đầy đủ đức tướng, thời sau khi Thánh vương thăng hà trong vòng bảy ngày các báu đều tan mất.
Cũng vậy, kinh này chẳng vào tay của các chúng sanh khác, chỉ trừ chân tử của đức Như Lai pháp vương, sanh vào nhà Như Lai, gieo căn lành Như Lai. Nếu không có những chân tử này, thời pháp môn đây chẳng bao lâu sẽ tan mất. Vì tất cả hàng Nhị thừa chẳng được nghe kinh này huống là thọ trì, đọc tụng, biên chép, phân biệt giải thuyết. Chỉ có chư Bồ-tát mới có thể được như vậy.
Người được hưởng pháp vị của kinh Hoa Nghiêm, tất cũng đã gieo chút chủng tử căn lành về Đại thừa, chứ không phải vô duyên vô cớ mà được.
Do những cớ trên đây, chư đại Bồ tát nghe pháp môn này nên rất vui mừng, dùng tâm tôn trọng cung kính đảnh lễ. Vì đại Bồ-tát tin ưa kinh này thời mau được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Nhân và quả không khác nhau, vì vậy tin được kinh này tức là thấy được pháp thân. Thấy được pháp thân nhất định sẽ thành Phật.
Chư Phật tử! Giả sử có Bồ-tát trong vô lượng trăm ngàn ức na-do-tha kiếp thật hành sáu môn ba-la-mật, tu tập những pháp Bồ đề phần, nếu chưa nghe pháp môn đại oai đức bất tư nghì của Như Lai đây, hoặc nghe rồi mà chẳng tin, chẳng hiểu, chẳng thuận, chẳng nhập, thời chẳng được gọi là chân thật Bồ-tát. Vì chẳng được sanh nhà Như Lai.
Giả sử trong vô lượng kiếp tu sáu pháp Lục độ được viên mãn, cùng những pháp Bồ đề phần, nhưng nếu chưa được nghe kinh này thì cũng chưa được gọi là Bồ-tát chân thật. Tại sao? Vì kinh này chỉ thẳng Phật tánh, nếu chúng ta tu tất cả pháp môn mà không nhận ra Phật tánh thì cũng như kẻ đứng ngoài rào. Thể nhập Phật tánh mới vào cửa Như Lai, chắc chắn sẽ ngồi tòa Như Lai, còn đứng ngoài rào là chưa bước vào nhà Như Lai, vì vậy chưa được gọi là Bồ-tát chân thật.
Nếu được nghe pháp môn vô chướng ngại trí tuệ vô lượng bất tư nghì của Như Lai đây, nghe rồi tin hiểu tùy thuận ngộ nhập. Nên biết người này sanh nhà Như Lai, tùy thuận cảnh giới của tất cả Như Lai, đầy đủ pháp Bồ-tát, an trụ cảnh giới Nhất thiết chủng trí, xa lìa tất cả những pháp thế gian, xuất sanh tất cả công hạnh của Như Lai, thông đạt tất cả pháp tánh của Bồ-tát, nơi đức tự tại của Phật không lòng nghi lầm, trụ nơi pháp vô sư, thâm nhập cảnh giới vô ngại của Như Lai.
Pháp môn trong kinh Hoa Nghiêm diễn tả chỉ cho chân tâm Phật tánh. Nếu chúng ta nghe rồi biết tùy thuận, tin hiểu tu theo thì chắc chắn sẽ bước vào cảnh giới Như Lai.
Đại Bồ-tát nghe pháp này rồi, thời có thể dùng bình đẳng trí biết vô lượng pháp, thời hay dùng tâm chánh trực lìa các phân biệt. Thời có thể dùng thắng dục lạc hiện tiền được thấy chư Phật. Thời có thể dùng sức tác ý nhập hư không giới bình đẳng. Thời có thể dùng niệm tự tại đi vô biên pháp giới. Thời có thể dùng sức trí tuệ đủ tất cả công đức. Thời có thể dùng trí tự nhiên lìa tất cả cấu nhiễm thế gian. Thời có thể dùng tâm Bồ-đề vào tất cả thế giới mười phương. Thời có thể dùng sức quán sát lớn biết tam thế chư Phật đồng một thể tánh, Thời có thể dùng trí thiện căn hồi hướng vào khắp pháp như vầy: Chẳng vào mà vào, chẳng phan duyên nơi một pháp, hằng dùng một pháp quán sát tất cả pháp.
Chư Phật tử! Đại Bồ-tát thành tựu công đức như vậy, dùng chút ít công lực liền được vô sư tự nhiên trí.
Phổ Hiền đại Bồ-tát muốn tuyên lại nghĩa này mà nói kệ rằng:
Thấy nghe cúng dường chư Như Lai
Thời được công đức vô biên lượng
Ở trong hữu vi trọn không hết
Tất diệt phiền não lìa những khổ.
Như người nuốt chút ít kim cang
Tất không tiêu được phải ra ngoài
Công đức cúng dường đấng Thập lực
Diệt phiền não đến kim cang trí.
Như cỏ khô bằng núi Tu-di
Ném đốm lửa nhỏ đều cháy hết
Chút ít công đức cúng dường Phật
Tất đoạn phiền não đến Niết-bàn.
Núi Tuyết có thuốc tên Thiện Kiến
Thấy nghe ngửi chạm tiêu các bệnh
Nếu ai thấy nghe đấng Thập lực
Được thắng công đức đến Phật trí.
Người nghe được pháp môn này mới có thể dùng bình đẳng trí biết vô lượng pháp. Bởi vì khi thể nhập pháp thân không sanh, không diệt, không động thì trí bình đẳng vô phân biệt trùm khắp, nên có thể biết vô lượng pháp, dùng tâm chánh trực lìa tất cả pháp, dùng trí tự nhiên lìa các cấu nhiễm thế gian v.v… Như vậy khi nhập được pháp môn này rồi thì được vào pháp thân, thể nhập Phật tánh, đầy đủ tất cả công đức. Có thể dùng trí thiện căn hồi hướng vào khắp pháp: Chẳng vào mà vào, chẳng phan duyên nơi một pháp, hằng dùng một pháp quán sát tất cả pháp.
Bồ-tát thành tựu công đức như thế, lúc ấy dùng ít công phu chắc chắn cũng sẽ đạt được kết quả viên mãn. Vô sư trí, tự nhiên trí hiện tiền.
Bấy giờ do thần lực của Phật, do pháp như vậy, mười phương đều có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na-do-tha thế giới sáu cách chấn động: Những là đông vọt tây lặn, tây vọt đông lặn, nam vọt bắc lặn, bắc vọt nam lặn, mé vọt giữa lặn, giữa vọt mé lặn.
Mười tám tướng động: Những là động, biến động, đẳng biến động; khởi, biến khởi, đẳng biến khởi; dũng, biến dũng, đẳng biến dũng; chấn, biến chấn, đẳng biến chấn; hống, biến hống, đẳng biến hống; kích, biến kích, đẳng biến kích.
Mưa mây hoa hơn cõi trời, mây lọng, mây tràng, mây phan, mây hương, mây tràng hoa, mây hương thoa, mây đồ trang nghiêm, mây đại quangminhma-ni bảo, mây chư Bồ-tát ca ngợi, mây thân sai khác của bất khả thuyết Bồ-tát. Mưa mây thành Chánh giác, mây nghiêm tịnh bất tư nghì thế giới, mây âm thanh ngữ ngôn của Phật đầy khắp vô biên thế giới.
Khi nói pháp này xong, do thần lực của Phật các thứ trong vũ trụ đều chấn động. Đây chỉ cho thấy diệu dụng từ thật thể chân tâm của mình. Nhận được tâm chân thật thì cái giả hư hoại, nên tất cả đều chấn động. Vì vậy hướng chỗ chân thật đó mà phát tâm cúng dường nhiều như mây mưa.
Như ở bốn châu thiên hạ này thần lực của đức Như Lai thị hiện như vậy, làm cho chư Bồ-tát rất hoan hỷ, cùng khắp mười phương tất cả thế giới đều cũng như vậy.
Bấy giờ mười phương qua tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức na-do-tha Phật sát vi trần số thế giới, đều có tám mươi bất khả thuyết ngàn ức na-do-tha Phật sát vi trần số Như Lai, đồng hiệu Phổ Hiền, đều hiện ra trước Phổ Hiền Bồ-tát mà bảo rằng:
Lành thay Phật tử! Nhà ngươi có thể thừa oai lực của Phật, tùy thuận pháp tánh mà diễn nói pháp Như Lai xuất hiện bất tư nghì.
Này Phật tử! Mười phương chúng ta, tám mươi bất khả thuyết trăm ngàn ức na-do-tha Phật sát vi trần số chư Phật, đồng hiệu Phổ Hiền đều nói pháp này.
Kết thúc quy về lý nhân quả đồng thời, hay là nhân trùm biển quả, quả tột nguồn nhân. Ngài Phổ Hiền là nhân nói pháp này, nhân là chân thì quả cũng là chân, cho nên chư Phật đồng hiệu Phổ Hiền.
Nhân của kinh Hoa Nghiêm là nhân Phật tánh nên quả thành Phật, tức thấy được Phật tánh của mình, vì vậy nhân và quả không hai.
Này Phật tử! Nay trong pháp hội này có mười vạn sát vi trần số đại Bồ-tát, được tất cả thần thông tam-muội của Bồ-tát, chư Phật chúng ta đều thọ ký họ một đời sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Chúng ta học kinh Hoa Nghiêm nếu kẹt trong danh từ thì giảng nghĩa suốt đời không xong. Như nói có mười vạn sát vi trần số đại Bồ-tát, số này làm sao tính lường, nên biết danh từ bất khả thuyết. Tất cả Bồ-tát đồng được thần thông tam-muội, chư Phật đều thọ ký cho các Bồ-tát này một đời sẽ được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác, tức đã đồng với Phật.
Lại có Phật sát vị trần số chúng sanh phát Bồ-đề tâm, chư Phật chúng ta cũng thọ ký họ ở đời vị lai trải qua bất khả thuyết Phật sát vị trần số kiếp, đều được thành Phật đồng hiệu là Phật Thù Thắng Cảnh Giới.
Khi nói kinh này ra thì vô số chúng sanh phát tâm Bồ-đề, mười phương chư Phật cũng đồng thọ ký cho họ, tức là nói nhân thì liền có quả, những Bồ-tát đang gieo nhân đều gặt hái được quả như nhau.
Chư Phật chúng ta vì muốn cho chư Bồ-tát vị lai được nghe pháp này, nên đều cùng hộ trì. Như hóa độ chúng sanh nơi bốn châu thiên hạ này, mười phương trăm ngàn ức na-do-tha vô số vô lượng, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết pháp giới hư không tất cả thế giới, hóa độ chúng sanh cũng đều như vậy.
Bấy giờ do thần lực của thập phương chư Phật, do nguyện lực của Tỳ-lô-giá-na, do pháp như vậy, do sức thiện căn, do Như Lai khởi trí chẳng vượt ngoài tâm niệm, do Như Lai ứng duyên chẳng lỗi thời, do tùy thời giác ngộ chư Bồ-tát, do thuở trước tu hành không hư mất, do làm cho được hạnh Phổ Hiền quảng đại, do tại, nên mười phương đều qua khỏi mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na-do-tha Phật sát vị trần số thế giới, đều có mười bất khả thuyết trăm ngàn ức na-do-tha Phật sát vi trần số Bồ-tát đồng đến nơi đây, đầy khắp tất cả mười phương pháp giới, thị hiện sự quảng đại trang nghiêm của Bồ-tát, phóng lưới đại quang minh, chấn động tất cả mười phương thế giới, làm hư tan tất cả cung điện của các loài ma, tiêu diệt tất cả những khổ ác đạo, hiển hiện tất cả oai đức của Như Lai, ca ngâm khen ngợi vô lượng pháp công đức sai biệt của Như Lai, khắp mưa tất cả những thứ mưa, thị hiện vô lượng thân sai biệt, lãnh thọ vô lượng Phật pháp, do thần lực của Phật nên đồng nói rằng: Lành thay Phật tử! Ngài có thể nói pháp bất khả hoại của Như Lai đây.
Này Phật tử! Chư Bồ tát chúng tôi đều hiệu Phổ Hiền, đều từ thế giới Phổ Quang Minh, chỗ của đức Như Lai Phổ Tràng Tự Tại mà đến đây. Tất cả thế giới đó đều nói pháp này. Văn cú như vậy, nghĩa lý như vậy, tuyên thuyết như vậy, quyết định như vậy, đều đồng ở đây chẳng thêm chẳng bớt.
Chư Bồ-tát chúng tôi đều do thần lực của Phật, do được pháp Như Lai nên đến nơi đây để chứng minh cho ngài. Như chúng tôi đến đây, mười phương khắp hư không khắp pháp giới tất cả thể giới bốn châu thiên hạ cũng như vậy.
Đoạn này nói một pháp đồng thời. Ở chỗ này Bồ-tát Phổ Hiền nói thì chư Bồ-tát ở mười phương kia cũng đồng thời nói. Mười phương Bồ-tát gặp nhau đồng tán thán nhau, cùng chứng minh cho nhau. Hình ảnh này để nói lên lý không riêng rẽ, một và mười phương dung nhiếp nhau, không hai không khác.
Bấy giờ Phổ Hiền Bồ tát thừa thần lực của Phật, quán sát tất cả Bồ-tát đại chúng, muốn tuyên rõ lại oai đức quảng đại xuất hiện của Như Lai, chánh pháp chẳng thể trở hoại của Như Lai, vô lượng thiện căn đều chẳng luống, chư Phật xuất thế ắt đủ tất cả pháp tối thắng, giỏi quán sát được tâm chúng sanh tùy nghi thuyết pháp chưa từng lỗi thời, sanh Bồ-tát vô lượng pháp quang, tất cả chư Phật tự tại trang nghiêm, tất cả Như Lai một thân không khác sanh khởi, do từ đại hạnh thuở trước. Nói kệ rằng:
Tất cả Như Lai những công hạnh
Thế gian ví dụ không kịp được
Vì khiến chúng sanh được ngộ giải
Chẳng dụ làm dụ mà hiển thị.
Pháp thậm thâm vi mật như vậy
Trăm ngàn muôn kiếp khó được nghe
Người tinh tấn trí tuệ điều phục
Mới được nghe nghĩa bí áo này.
Nếu nghe pháp này sanh hoan hỷ
Kia từng cúng dường vô lượng Phật
Được Phật gia trì chỗ nhiếp thọ
Trời người ca ngợi thường cúng dường.
Đây là pháp cứu thế đệ nhất
Đây hay cứu độ những quần phẩm
Đây hay xuất sanh đạo thanh tịnh
Các ngài thọ trì chớ phóng dật.