Kinh Hoa Nghiêm từ quyển một tới quyển sáu trình bày rõ ràng đầy đủ công hạnh của Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật.
Hội thứ nhất đức Phật ở cội bồ đề thành Phật phóng quang v.v… để cho hội chúng có ý niệm quý trọng công đức vô lượng vô biên của đức Phật mà phát tâm Bồ-đề, gọi đó là Tín vị.
Hội thứ hai đức Phật thuyết pháp tại điện Phổ Quang Minh, làm cho hội chúng đầy đủ Thập tín.
Hội thứ ba, Phật lên cõi trời Đao-lợi, các vị Bồ tát họp lại nói pháp Thập trụ.
Hội thứ tư, Phật lên cõi trời Dạ–ma nói pháp Thập hạnh.
Hội thứ năm, Phật lên cõi trời Đâu-suất nói Thập hồi hướng.
Hội thứ sáu, Phật lên cõi trời Tha Hóa Tự Tại nói pháp Thập địa. Tuy Phật hiện thân nhiều nơi nhưng không rời Bồ-đề Tràng.
Hội thứ bảy trở lại điện Phổ Quang Minh nói pháp Đẳng giác và Diệu giác, tiến tới thành Phật.
Phẩm Như Lai Xuất Hiện và phẩm Ly Thế Gian nói đầy đủ công hạnh thành Phật quả của Bồ-tát, nghĩa là từ hội Bồ-đề Trang cho đến phẩm Ly Thế Gian, đức Phật đã nói đầy đủ công hạnh Bồ-tát, từ sơ phát tâm cho tới thành Phật. Như vậy chỉ dạy về lý thuyết, chưa nói tới sự thực hành.
Đến phẩm Nhập Pháp Giới, Phật cụ thể hóa việc thực hành, bằng hình ảnh đồng tử Thiện Tài phát tâm đi cầu đạo nơi năm mươi hai vị thiện tri thức, cuối cùng nhập hạnh Phổ Hiền. Theo kinh Pháp Hoa thì sáu quyển trước là khai, thị, ngộ; đến phần cuối này là phần nhập, tức là nhập pháp giới hay nhập Phật tri kiến, Như vậy phẩm này nói về sự thực hành, không còn nói lý thuyết nữa.
Bấy giờ đức Thế Tôn ở nước Thất-la-phiệt, trong trùng các Đại Trang Nghiêm, tại rừng Thệ đa, vườn Cấp Cô Độc, câu hội với năm trăm đại Bồ-tát. Phổ Hiền Bồ-tát và Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát làm thượng thủ. Tên của các ngài là: Quang Diệm Tràng Bồ-tát, Tu-di Tràng Bồ-tát, Bảo Tràng Bồ-tát, Vô Ngại Tràng Bồ-tát, Hoa Tràng Bồ-tát, Ly Cấu Tràng Bồ-tát, Nhật Tràng Bồ-tát, Diệu Tràng Bồ-tát, Ly Trần Tràng Bồ-tát, Phổ Quang Tràng Bồ-tát, Địa Oai Lực Bồ-tát, Bảo Oai Lực Bồ-tát, Đại Oai Lực Bồ-tát, Kim Cang Trí Oai Lực Bồ-tát, Ly Trần Cấu Oai Lực Bồ-tát, Chánh Pháp Nhật Oai Lực Bồ-tát, Công Đức Sơn Oai Lực Bồ-tát, Trí Quang Ảnh Oai Lực Bồ-tát, Phổ Kiết Tường Oai Lực Bồ-tát, Địa Tạng Bồ-tát, Hư Không Tạng Bồ-tát, Liên Hoa Tạng Bồ-tát, Bảo Tạng Bồ-tát, Nhật Tạng Bồ-tát, Tịnh Đức Tạng Bồ-tát, Pháp Ấn Tạng Bồ-tát, Quang Minh Tạng Bồ-tát, Tế Tạng Bồ-tát, Liên Hoa Đức Tạng Bồ-tát, Thiện Nhãn Bồ-tát, Tịnh Nhãn Bồ-tát, Ly Cấu Nhãn Bồ-tát, Vô Ngại Nhãn Bồ-tát, Phổ Kiến Nhãn Bồ-tát, Thiện Quán Nhãn Bồ-tát, Thanh Liên Hoa Nhãn Bồ-tát, Kim Cang Nhãn Bồ-tát, Bảo Nhãn Bồ-tát, Hư Không Nhãn Bồ-tát, Hỷ Nhãn Bồ-tát, Phổ Nhãn Bồ-tát, Thiên Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Trí Tuệ Quan Bồ tát, Đạo Tràng Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Thập Phương Quan Bồ-tát, Nhất Thiết Phật Tạng Quan Bồ-tát, Siêu Xuất Nhất Thiết Thế Gian Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Quan Bồ-tát, Bất Khả Hoại Quan Bồ-tát, Trì Nhất Thiết Như Lai Sư Tử Tòa Quan Bồ-tát, Phổ Chiếu Pháp Giới Hư Không Quan Bồ-tát, Phạm Vương Kế Bồ-tát, Long Vương Kế Bồ-tát, Nhất Thiết Hóa Phật Quang Minh Kế Bồ-tát, Nhất Thiết Đạo Tràng Kế Bồ-tát, Nhất Thiết Nguyện Hải Âm Bảo Vương Kế Bồ-tát, Nhất Thiết Phật Quang Minh Ma-ni Kế Bồ-tát, Thị Hiện Nhất Thiết Hư Không Bình Đẳng Tướng Ma-ni Vương Trang Nghiêm Kế Bồ-tát, Thị Hiện Nhất Thiết Như Lai Thần Biến Ma-ni Vương Tràng Võng Thùy Phúc Kế Bồ-tát, Xuất Nhất Thiết Phật Chuyển Pháp Luân Âm Kế Bồ-tát, Thuyết Tam Thế Nhất Thiết Danh Tự Âm Kế Bồ-tát, Đại Quang Bồ-tát, Ly Cấu Quang Bồ-tát, Bảo Quang Bồ-tát, Ly Trần Quang Bồ-tát, Diệm Quang Bồ-tát, Pháp Quang Bồ-tát, Tịch Tịnh Quang Bồ-tát, Nhật Quang Bồ-tát, Tự Tại Quang Bồ-tát, Thiên Quang Bồ-tát, Phước Đức Tràng Bồ-tát, Trí Huệ Tràng Bồ-tát, Pháp Tràng Bồ-tát, Thần Thông Tràng Bồ-tát, Quang Tràng Bồ-tát, Hoa Tràng Bồ-tát, Ma-ni Tràng Bồ-tát, Bồ-đề Tràng Bồ-tát, Phạm Tràng Bồ-tát, Phổ Quang Tràng Bồ-tát, Phạm Âm Bồ-tát, Hải Âm Bồ-tát, Đại Địa Âm Bồ-tát, Thế Chủ Âm Bồ-tát, Sơn Tướng Kích Âm Bồ-tát, Biến Nhất Thiết Pháp Giới Âm Bồ-tát, Chấn Nhất Thiết Pháp Hải Lôi Âm Bồ-tát, Hàng Ma Âm Bồ-tát, Đại Bi Phương Tiện Vân Lôi Âm Bồ-tát, Tức Nhất Thiết Thế Gian Khổ An Ủy Âm Bồ-tát, Pháp Thượng Bồ-tát, Thắng Thượng Bồ-tát, Trí Thượng Bồ-tát, Phước Đức Tu-di Thượng Bồ-tát, Công Đức San Hô Thượng Bồ-tát, Danh Xưng Thượng Bồ-tát, Phổ Quang Thượng Bồ-tát, Đại Từ Thượng Bồ-tát, Trí Hải Thượng Bồ-tát, Phật Chủng Thượng Bồ-tát, Quang Thắng Bồ-tát, Đức Thắng Bồ-tát, Thượng Thắng Bồ-tát, Phổ Minh Thắng Bồ-tát, Pháp Thắng Bồ-tát, Nguyệt Thắng Bồ-tát, Hư Không Thắng Bồ-tát, Bảo Thắng Bồ-tát, Tràng Thắng Bồ-tát, Trí Thắng Bồ-tát, Ta-la Tự Tại Vương Bồ-tát, Pháp Tự Tại Vương Bồ-tát, Tượng Tự Tại Vương Bồ-tát, Phạm Tự Tại Vương Bồ-tát, Sơn Tự Tại Vương Bồ-tát, Chúng Tự Tại Vương Bồ-tát, Tốc Tật Tự Tại Vương Bồ-tát, Tịch Tịnh Tự Tại Vương Bồ-tát, Bất Động Tự Tại Vương Bồ-tát, Thế Lực Tự Tại Vương Bồ-tát, Tối Thắng Tự Tại Vương Bồ-tát, Tịch Tịnh Âm Bồ-tát, Vô Ngại Âm Bồ-tát, Địa Chấn Âm Bồ-tát, Hải Chấn Âm Bồ-tát, Vân Âm Bồ-tát, Pháp Quang Âm Bồ-tát, Hư Không Âm Bồ-tát, Thuyết Nhất Thiết Chúng Sanh Thiện Căn Âm Bồ-tát, Thị Nhất Thiết Đại Nguyện Âm Bồ-tát, Đạo Tràng Âm Bồ-tát, Tu-di Quang Giác Bồ-tát, Hư Không Giác Bồ-tát, Ly Nhiễm Giác Bồ-tát, Vô Ngại Giác Bồ-tát, Thiện Giác Bồ-tát, Phổ Chiếu Tam Thế Giác Bồ-tát, Quảng Đại Giác Bồ-tát, Phổ Minh Giác Bồ-tát, Pháp Giới Quang Minh Giác Bồ-tát… Năm trăm đại Bồ-tát như vậy câu hội.
Những Bồ-tát này thảy đều thành tựu hạnh nguyện Phổ Hiền Cảnh giới vô ngại, vì cùng khắp tất cả cõi Phật. Hiện thân vô lượng, vì thân cận tất cả chư Như Lai. Tịnh nhãn vô ngại, vì thấy tất cả sự thần biến của chư Phật. Xử đến vô hạn vì hằng khắp đến chỗ của tất cả Như Lai thành Chánh giác. Quang minh vô tế, vì trí tuệ quang chiếu khắp tất cả thật pháp hải. Thuyết pháp vô tận, vì thanh tịnh biện tài vô biên tế kiếp không cùng tận. Khắp hư không giới, vì trí tuệ ra làm đều thanh tịnh. Không chỗ y chỉ, vì tùy tâm chúng sanh hiện sắc thân. Diệt trừ mê lòa, vì rõ chúng sanh giới không chúng sanh. Trí khắp hư không, vì dùng lưới đại quang minh chiếu pháp giới.
Hàng Thanh văn năm trăm vị câu hội. Những vị này đều giác ngộ chân đế, đều chứng thật tế, thâm nhập pháp tánh, thoát hẳn biển hữu lậu, nương Phật công đức, lìa sự trói buộc của kiết sử, trụ chỗ vô ngại. Tâm các ngài tịch tịnh như hư không. Ở chỗ chư Phật, dứt hẳn nghi lầm. Nơi trí chư Phật, tin sâu xu nhập.
Vô lượng Thế Chủ câu hội. Những Thế Chủ này đều đã từng cúng dường vô lượng chư Phật. Thường hay lợi ích tất cả chúng sanh, làm bất thỉnh hữu. Hằng siêng thủ hộ thệ nguyện chẳng bỏ chúng sanh. Đã nhập thế gian thù thắng trí môn. Từ Phật giáo sanh. Hộ Phật chánh pháp. Phát đại nguyện chẳng để dứt Phật chủng. Sanh nhà Như Lai cầu Nhất thiết trí.
Trong kinh Hoa Nghiêm, mở đầu mỗi hội đều có đầy đủ lục chủng chứng tín như một quyển kinh. Phẩm này, đức Thế Tôn là Chủ thành tựu. Nước Thất-la-phiệt còn gọi là Xá-vệ quốc, rừng Thệ đa chỗ khác kêu rừng Kỳ-đà vườn Cấp Cô Độc là Xứ thành tựu, Chúng Bồ-tát, Thanh văn và Thế Chủ là Chúng thành tựu. Bấy giờ là Thời thành tựu. Phần sau là Văn thành tựu và Pháp thành tựu.
Bấy giờ chư đại Bồ-tát, đại đức Thanh văn, những chủ thế gian và quyến thuộc đều nghĩ rằng: cảnh giới của Như Lai, trí hạnh của Như Lai, gia trì của Như Lai, lực của Như Lai, vô úy của Như Lai, tam-muội của Như Lai, sở trụ của Như Lai, tự tại của Như Lai, thân của Như Lai, trí của Như Lai, tất cả thế gian chư thiên cùng người đời không thông đạt được, không xu nhập được, không tín giải được, không rõ biết được, không nhẫn thọ được, không quán sát được, không giản trạch được, không khai thị được, không tuyên minh được. Không ai có thể làm cho chúng sanh hiểu rõ. Chỉ trừ sức gia bị của chư Phật, sức thần thông của Phật, sức oai đức của Phật, sức bổn nguyện của Phật và sức thiện căn đời trước của họ, sức nhiếp thọ của thiện tri thức, sức tịnh tín sâu, sức minh giải lớn, sức tâm thanh tịnh xu hướng Bồ-đề, sức nguyện rộng lớn cầu Nhất thiết trí. Cúi xin đức Thế Tôn tùy thuận chúng tôi và những dục giải của các chúng sanh, những trí, những ngôn ngữ, những tự tại, những trụ địa, những căn thanh tịnh, những ý phương tiện, những tâm cảnh giới, những y chỉ công đức của Như Lai, những pháp đã được nghe thọ của chúng tôi và các chúng sanh mà hiển thị đức Như Lai: thuở xưa xu cầu tâm Nhất thiết trí, thuở xưa phát khởi đại nguyện Bồ-tát, thuở xưa tu tịnh, những môn ba-la-mật, thuở xưa đã nhập những bậc Bồ-tát, thuở xưa viên mãn những hạnh Bồ-tát, thuở xưa thành tựu phương tiện, thuở xưa tu hành những đạo, thuở xưa chứng được pháp xuất ly, thuở xưa đã làm những sự thần thông, thuở xưa đã có bổn sự nhân duyên, đến thành Đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, tịnh Phật quốc độ, điều phục chúng sanh, mở thành pháp Nhất thiết trí, chỉ đường tất cả chúng sanh, nhập chỗ ở của tất cả chúng sanh, thọ sự cúng dường của tất cả chúng sanh, vì tất cả chúng sanh mà nói công đức bố thí, vì tất cả chúng sanh mà hiện ảnh tượng của chư Phật. Những pháp như vậy, xin đức Phật vì chúng tôi mà giải thuyết.
Hội chúng muốn hỏi cảnh giới của Như Lai, tức là muốn hỏi cảnh giới, trí hạnh, việc xuất gia, luật, vô úy, tam-muội cho tới sở trụ của Phật như thế nào v.v… Nghĩa là hội chúng cầu xin đức Phật giải thích vấn đề đang nghi.
Bấy giờ đức Thế Tôn biết tâm niệm của chư Bồ-tát, liền dùng đại bi làm thân, đại bi làm môn, đại bi làm đầu, dùng pháp đại bi mà làm phương tiện, đầy khắp hư không, nhập Sư tử tần thân tam-muội.
Khi đức Thế Tôn nhập tam-muội này rồi, tất cả thế gian đều khắp nghiêm tịnh.
Liền đó, lâu các đại trang nghiêm bỗng nhiên rộng rãi không có ngằn mé, kim cang làm đất, bảo vương che phía trên, vô lượng bảo hoa và những châu ma-ni rải đầy khắp trong lầu, lưu ly làm cột, các thứ báu hợp thành, trang nghiêm với đại quang ma-ni, vàng diêm-phù-đàn, như ý bảo vương trùm khắp phía trên nghiêm sức. Lầu cao thành dãy, đường gác kèm bên. Kèo mái thừa nhau, cửa ngạch chói nhau. Thềm, bậc, hiên, bao lơn đều đầy đủ. Tất cả đều trang nghiêm với diệu bảo. Những bảo ấy đều là hình tượng nhân thiên, kiên cố đẹp lạ đệ nhất thế gian. Lưới báu ma-ni che khắp phía trên. Bên cửa đều dựng tràng phan, đều phóng quang minh cùng khắp giới. Ngoài đạo tràng, thềm cấp lan can nhiều vô lượng không thể kể nói, đều bằng ngọc ma-ni.
Lúc đó lại do thần lực của Phật, rừng Thệ-đa bỗng nhiên rộng rãi đồng với bất khả thuyết Phật sát vi trần số quốc độ. Tất cả diệu bảo xen lẫn trang nghiêm. Bất khả thuyết bảo trải khắp mọi nơi. Vô số bảo làm tường rào. Cây đa-la báu trang nghiêm bên đường.
Trong rừng lại có vô lượng hương hà, đầy những nước thơm sóng gợn xoay quanh. Tất cả hoa báu theo dòng chuyển về phía hữu, tự nhiên diễn ra âm thanh Phật pháp. Bất tư nghì bạch liên hoa báu búp nở thơm tho giăng bày trên mặt nước. Những cây bông báu trồng hàng bên bờ sông. Bất tư nghì những đài, nhà mát xếp hàng trên bờ sông, lưới báu ma-ni che trùm. Vô số báu phóng đại quang minh. Vô số báu trang nghiêm mặt đất. Đốt những diệu hương mùi thơm ngào ngạt.
Lại dựng vô lượng bảo tràng. Những là: bảo hương tràng, bảo y tràng, bảo phan tràng, bảo thắng tràng, bảo hoa tràng, bảo anh lạc tràng, bảo man tràng, bảo linh tràng, ma-ni bảo cái tràng, đại ma-ni bảo tràng, quang minh biến chiếu ma-ni bảo tràng, xuất nhất thiết Như Lai danh hiệu âm thanh ma-ni vương tràng, sư tử ma-ni vương tràng, thuyết nhất thiết Như Lai bổn sự hải ma-ni vương tràng, hiện nhất thiết pháp giới ảnh tượng ma-ni vương tràng. Những bảo tràng này bày hàng trang nghiêm cùng khắp mười phương.
Bấy giờ trong hư không trên rừng Thệ đa có bất tư nghì Thiên cung điện vân, vô số hương thọ vân, bất khả thuyết Tu-di sơn vân, bất khả thuyết kỹ nhạc vẫn phát ra tiếng hay diệu ca ngợi đức Như Lai, bất khả thuyết bảo liên hoa vân, bất khả thuyết bảo tòa vân trải thiên y Bồ-tát ngồi trên đó ca ngợi công đức của Phật, bất khả thuyết thiên vương hình tượng ma-ni bảo vân, bất khả thuyết bạch chân châu vân, bất khả thuyết xích châu lâu các trang nghiêm cụ vân, bất khả thuyết vũ kim cang kiên cố châu vân. Những bảo vân này đều dừng ở hư không bao vòng cùng khắp để trang nghiêm.
Tại sao vậy? Vì thiện căn của đức Như Lai bất tư nghì. Vì bạch pháp của đức Như Lai bất tư nghì. Vì oai lực của đức Như Lai bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng một thân tự tại biến hóa khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể dùng thần lực làm cho tất cả Phật và Phật quốc trang nghiêm đều nhập vào thân mình bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một vi trần hiện khắp ảnh tượng tất cả pháp giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông thị hiện quá khứ tất cả chư Phật bất tư nghì. Vì đức Như Lai tùy phóng mỗi một quang minh đều có thể chiếu khắp tất cả thế giới bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông phát ra tất cả Phật sát vi trần số biến hóa vân đầy khắp tất cả chư Phật quốc độ bất tư nghì. Vì đức Như Lai có thể ở trong một lỗ lông hiện khắp tất cả thế giới mười phương thành trụ hoại kiếp bất tư nghì.
Như ở tại rừng Thệ đa vườn Cấp Cô Độc thấy Phật quốc thanh tịnh trang nghiêm, mười phương tất cả pháp giới hư không giới, tất cả thế giới cũng đều thấy như vậy.
Những là thấy thân đức Như Lai ở rừng Thệ-đa, chúng hội Bồ-tát thảy đều cùng khắp. Thấy khắp nơi mưa những mây trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây bảo quang minh chiếu sáng. Thấy khắp nơi mưa những mây ma-ni bảo. Thấy khắp nơi mưa những mây lọng trang nghiêm che trùm cõi Phật. Thấy khắp nơi mưa những mây thiên thân. Thấy khắp nơi mưa những mây hoa thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây y thọ. Thấy khắp nơi mưa những mây bảo man anh lạc nối tiếp chẳng dứt cùng khắp tất cả đại địa. Thấy khắp nơi mưa những mây đồ trang nghiêm. Thấy khắp nơi mưa những mây thơm hình chúng sanh. Thấy khắp nơi mưa những mây lưới hoa báu vi diệu tiếp nối chẳng ngớt. Thấy khắp nơi mưa những mây chư thiên nữ cầm tràng phan báu đi qua lại ở trong hư không. Thấy khắp nơi mưa những mây bảo liên hoa, ở trong cánh hoa tự nhiên phát ra những tiếng nhạc. Thấy khắp nơi mưa những mây tòa sư tử lưới báu anh lạc dùng trang nghiêm.
Chúng ta chưa từng thấy, chưa từng nghe ở thế gian này có những cảnh giới đẹp lạ thường như vậy. Đây là cảnh giới của chư Phật. Khi hội chúng suy nghĩ muốn hỏi những điều còn nghi ngờ, lúc đó đức Phật tự biết tâm niệm của chúng sanh, nên ngài nhập định hiện ra những tướng bất khả tư nghì. Những tướng bất tư nghì ấy do thiện căn, trạch pháp, oai lực của đức Như Lai bất khả tư nghì. Một thân Như Lai có thể tự tại biến hóa cả thế giới bất tư nghì… Sở dĩ đức Phật khi nhập định hiện ra cảnh trang nghiêm tốt đẹp lạ thường là do công đức của đức Phật đã vun bồi, gây tạo đầy đủ, nhân như vậy sẽ có quả như vậy, nhân bất tư nghì nên quả là bất tư nghì, nhân quả không rời nhau.
Nhân quả của Phật là bất khả tư nghì, chẳng những thấy ở trong vườn Thệ-đa mà còn thấy mười phương Phật quốc đều trang nghiêm thanh tịnh hiện trong đó. Bởi vì thân và tâm các đức Phật không còn hạn cuộc thì quả báo cũng không hạn cuộc, cho nên mười phương quốc độ đều thanh tịnh, chứ không chỉ ở trong rừng Thệ-đa nước Xá-vệ. Thân tâm chúng ta còn hạn cuộc nên quả báu cũng hạn cuộc trong phạm vi nhỏ.
Phẩm Nhập Pháp Giới này trình bày quá trình tu chứng của Bồ-tát, là phẩm chánh yếu trong kinh Hoa Nghiêm. Do thấy công đức Phật quả bất khả tư nghì, khiến hội chúng trước phát khởi lòng tin về công đức Phật, rồi sau mới phát Bồ-đề tâm.
Lúc đó phương Đông qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Đăng Vân Tràng. Đức Phật nơi đó hiệu là Tỳ-lô-giá-na Thắng Đức Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ-tát hiệu là Tỳ-lô-giá-na Nguyện Quang Minh, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ-tát câu hội đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện những lùm mây: mây thiên hoa, mây thiên hương, mây thiên mạt hương, mây thiên man, mây thiên bảo, mây thiên trang nghiêm cụ, mây thiên bảo cái, mây thiên vi diệu y, mây thiên bảo tràng phan, mây những diệu bảo trang nghiêm đầy dẫy hư không.
Đến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ-tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Đông hóa làm lâu các bảo trang nghiêm và tòa sư tử bảo liên hoa tạng chiếu khắp mười phương. Lưới như ý bảo choàng trên thân. Rồi cùng quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.
Phương Nam qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới hải, có thế giới tên là Kim Cang Tạng. Đức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Vô Thắng Tạng Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ-tát hiệu là Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương, cùng bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ-tát câu hội đến chỗ đức Phật, đồng cầm những lưới bảo hương, những bảo anh lạc, những bảo hoa đới, những bảo man đới, những kim cang anh lạc, những lưới bảo ma-ni, những bảo y đới, những bảo anh lạc đới, những thắng quang minh ma-ni đới, những sư tử ma-ni bảo anh lạc. Đều dùng thần lực làm cho những bảo vật trên đầy khắp tất cả thế giới hải.
Đến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ-tát đảnh lễ chân Phật. Liền ở nơi phương Nam hóa làm lâu các biến chiếu thế gian ma-ni bảo trang nghiêm, và tòa sư tử phổ chiếu thập phương bảo liên hoa tạng. Dùng những lưới bảo hoa choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên đó.
Phương Tây qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vị trần số thế giới hải, có thế giới tên là Ma-ni Bảo Đăng Tu-di Sơn Tràng. Đức Phật nơi đó hiệu là Pháp Giới Trí Đăng.
Trong chúng hội của đức Phật đó, có Bồ tát hiệu là Phổ Thắng Vô Thượng Oai Đức Vương, cùng thế giới hải vị trần số Bồ-tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Đều dùng thần lực hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số những hương thoa, hương thắp, mây Tu-di sơn, những mây Tu-di sơn hương thủy nhiều màu, những mây Tu-di sơn quang minh ma-ni bảo vương, những mây Tu-di sơn quang diệm luân trang nghiêm tràng, những mây Tu-di sơn kim cang tạng ma-ni vương trang nghiêm nhiều màu, những mây Tu-di sơn diêm-phù dàn ma-ni bảo tràng chiếu khắp tất cả thế giới, những mây Tu-di sơn ma-ni bảo hiện tất cả pháp giới, những mây Tu-di sơn ma-ni bảo vương hiện tất cả chư Phật tướng hảo, những mây Tu-di sơn ma-ni bảo vương hiện bổn sự nhân duyên của chư Phật nói tất cả công hạnh tu hành của chư Bồ-tát, những mây Tu-di sơn ma-ni bảo vương hiện tất cả Phật ngồi Bồ-đề Tràng. Những mây này đầy khắp pháp giới.
Đến chỗ đức Phật rồi, chư Bồ-tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây hóa lâu các nhất thiết hương vương, lưới báu chân châu giăng trùm trên đó, và hóa tòa sư tử bảo liên hoa tạng tràng bóng Thiên đế, dùng lưới ma-ni diệu sắc choàng nơi thân, trên đầu trang nghiêm với mão tâm vương bảo, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Phương Bắc qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vị trần số thế giới, có thế giới tên là Bảo Y Quang Minh Tràng. Đức Phật nơi đó hiệu là Chiếu Hư Không Pháp Giới Đại Quang Minh. Trong chúng hội của đức Phật đó, có Bồ-tát hiệu là Vô Ngại Thắng Tạng Vương cùng thế giới hải vị trần số Bồ-tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật đều dùng thần lực hiện những mây bảo y. Những là mây bảo y quang minh màu vàng, những mây bảo y ướp hương, mây bảo y nhật tràng ma-ni vương, mây bảo y kim sắc xí nhiên ma-ni, những mây bảo y quang diệm, những mây bảo y ma-ni thượng diệu tượng tinh tú, những mây bảo y ma-ni bạch ngọc quang, những mây bảo y ma-ni thù thắng quang minh biến chiếu, những mây bảo y ma-ni oai thế quang minh biến chiếu, những mây bảo y ma-ni trang nghiêm hải. Những mây bảo y này đầy khắp hư không.
Khi đến chỗ đức Phật, chư Bồ-tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Bắc hóa làm lâu các ma-ni bảo hải trang nghiêm và tòa sự tử liên hoa tạng tỳ-lưu-ly bảo. Dùng lưới ma-ni vương sư tử oai đức choàng trên thân. Dùng bảo vương thanh tịnh minh châu trang nghiêm trên đầu cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Phương Đông Bắc qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhất Thiết Hoan Hỷ Thanh Tịnh Quang Minh Võng. Đức Phật nơi đó hiệu là Vô Ngại Nhãn.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ-tát hiệu là Hóa Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương, cùng thế giới hải vị trần số Bồ-tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây lâu các báu, mây lâu các hương, mây lâu các hương đốt, mây lâu các hoa, mây lâu các chiên-đàn, mây lâu các kim cang, mây lâu các ma-ni, mây lâu các huỳnh kim, mây lâu các bảo y, mây lâu các liên hoa, che khắp thế giới mười phương.
Khi đã đến chỗ Phật, chư Bồ-tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Đông Bắc hóa làm lâu các đại ma-ni pháp giới môn, và tòa sư tử liên hoa tạng vô đẳng hương vương, dùng lưới ma-ni hoa choàng trên thân, đội mão diệu bảo tạng ma-ni vương, cùng chư quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Phương Đông Nam qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới hiệu là Hương Vân Trang Nghiêm Tràng. Đức Phật nơi đó hiệu là Long Tự Tại Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ-tát hiệu là pháp Huệ Quang Diệm Vương, cùng thế giới hải vị trần số Bồ-tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật, đều dùng thần lực hiện mây kim sắc viên mãn quang minh, mây vô lượng bảo sắc viên mãn quang minh, mây Như Lai hào tướng viên mãn quang minh, mây những bảo sắc viên mãn quang minh, mây liên hoa tạng viên mãn quang minh, mây bảo thọ chi viên mãn quang minh, mây Như Lai đảnh kế viên mãn quang minh, mây diêm-phù đàn kim sắc viên mãn quang minh, mây nhật sắc viên mãn quang minh, mây tinh nguyệt sắc viên mãn quang minh, đầy khắp hư không.
Đến chỗ đức Phật rồi chư Bồ-tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Đông Nam hóa làm lâu các Tỳ-lô-giá-na tối thượng bảo quang minh, và tòa sư tử kim cang ma-ni liên hoa tạng lưới bảo quang diệm ma-ni vương choàng trên thân, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Phương Tây Nam qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vị trần số thế giới, có thế giới tên là Nhật Quang Ma-ni Tạng. Đức Phật nơi đó hiệu là Phổ Chiếu Chư Pháp Trí Nguyệt Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ-tát hiệu là Tồi Phá Nhất Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương, cùng thế giới hải vị trần số Bồ-tát câu hội, đồng đến chỗ đức Phật. Ở trong tất cả lỗ lông hiện ra mây hoa diệm khắp hư không giới, mây hương diệm, mây bảo diệm, mây kim cang diệm, mây thiêu hương diệm, mây điển quang diệm, mây Tỳ-lô-giá-na ma-ni bảo diệm, mây nhất thiết kim quang diệm, mây thắng tạng ma-ni vương quang diệm, mây đồng tam thế Như Lai hải quang diệm, mỗi mỗi đều từ những lỗ lông hiện ra khắp hư không giới.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ-tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở phương Tây Nam hóa làm lưới phổ hiện thập phương pháp giới quang minh lâu các đại ma-ni bảo, và tòa sư tử hương đăng diệm bảo liên hoa tạng, dùng lưới ly cấu tạng ma-ni choàng trên thân, đội mão xuất nhất thiết chúng sanh phát thú âm ma-ni vương nghiêm sức, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Phương Tây Bắc qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Tỳ-lô-giá-na Nguyện Ma-ni Vương Tạng. Đức Phật nơi đó hiệu là Phổ Quang Minh Tối Thắng Tu-di Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ-tát hiệu là Nguyện Trí Quang Minh Tràng, cùng thế giới hải vị trần số Bồ-tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong khoảng mỗi niệm, nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần đều hiện ra mây hình tượng tất cả tam thế Như Lai, mây hình tượng tất cả Bồ-tát, mây hình tượng chúng hội của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân biến hóa của tất cả Như Lai, mây hình tượng thân bổn sanh của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả Thanh văn, Bích chi Phật, mây hình tượng Bồ-đề tràng của tất cả Như Lai, mây hình tượng thần biến của tất cả Như Lai, mây hình tượng tất cả thế gian chủ, mây hình tượng tất cả quốc độ thanh tịnh, đầy khắp hư không.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ-tát đảnh lễ chân Phật, liền ở phương Tây Bắc hóa làm lâu các ma-ni bảo trang nghiêm phổ chiếu thập phương và tòa sư tử bảo liên hoa tạng phổ chiếu thế gian. Dùng lưới chân châu vô năng thắng quang minh choàng trên thân, đội mão phổ quang minh ma-ni bảo, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Hạ phương qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới, có thế giới tên là Nhất Thiết Như Lai Viên Mãn Quang Phổ Chiếu. Đức Phật nơi đó hiệu là Hư Không Vô Ngại Tướng Trí Tràng Vương.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ-tát hiệu là Phá Nhất Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương, cùng thế giới hải vị trần số Bồ tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật. Trong tất cả lỗ lông hiện ra mây âm thanh nói ngữ ngôn hải của tất cả chúng sanh, mây âm thanh nói tu hành phương tiện hải của tất cả tam thế Bồ-tát, mây âm thanh nói phát nguyện phương tiện hải của tất cả Bồ-tát, mây âm thanh nói tất cả Bồ tát thành mãn thanh tịnh ba-la-mật phương tiện hải, mây âm thanh nói tất cả Bồ-tát viên mãn hạnh khắp tất cả cõi, mây âm thanh nói tất cả Bồ tát thành tựu tự tại dụng, mây âm thanh nói tự tại dụng của tất cả Như Lai, qua ngồi đạo tràng phá chúng ma quân thành Đẳng chánh giác, mây âm thanh nói tất cả Như Lai chuyển pháp luân khế kinh môn danh hiệu hải, mây âm thanh nói tất cả pháp phương tiện hải tùy cơ giáo hóa điều phục chúng sanh, mây âm thanh nói tất cả phương tiện hải tùy thời tùy thiện căn tùy nguyện lực khiến khắp chúng sanh chứng được trí tuệ.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ-tát đảnh lễ chư Phật, liền ở Hạ phương hóa làm lâu các chúng bảo trang nghiêm hiện hình tượng cung điện của tất cả Như Lai, và tòa sư tử bảo liên hoa tạng, đội mão phổ hiện đạo tràng ảnh ma-ni bảo, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Thượng phương qua khỏi bất khả thuyết Phật sát vị trần số thế giới hải, có thế giới tên là Thuyết Phật Chủng Tánh Vô Hữu Tận. Đức Phật nơi đó hiệu là Phổ Trí Luân Quang Minh Âm.
Trong chúng hội của đức Phật đó có Bồ-tát hiệu là Pháp Giới Sai Biệt Nguyện, cùng thế giới hải vi trần số Bồ tát câu hội đồng đến chỗ đức Phật Thích-ca-mâu-ni. Nơi tất cả tướng hảo, tất cả lỗ lông, tất cả thân phần, tất cả chi tiết, tất cả đồ trang nghiêm, tất cả y phục hiện ra, tất cả chư Phật quá khứ như đức Tỳ-lô-giá-na v.v… tất cả chư Phật vị lai hoặc đã được thọ ký hay chưa được thọ ký, hiện tại mười phương tất cả quốc độ, tất cả chư Phật và chúng hội. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Đàn ba-la-mật và tất cả người thọ bố thí thuở quá khứ. Cũng hiện ra những bổn sự hải thật hành Thi ba-la-mật thuở quá khứ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành Nhẫn nhục ba-la-mật, cắt dứt chi thể tâm không động loạn. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thật hành Tinh tấn ba-la-mật dũng mãnh bất thối. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu Như Lai Thiền ba-la-mật hải mà được thành tựu.
Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ cầu chư Phật chuyển pháp luân mà được thành tựu pháp phát tâm dũng mãnh tất cả đều xả bỏ. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ thích thấy chư Phật, thích hành Bồ-tát đạo, thích giáo hóa chúng sanh. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ những Bồ-tát đại nguyện thanh tịnh trang nghiêm. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ chư Bồ-tát thành Lực ba-la-mật dũng mãnh thanh tịnh. Cũng hiện những bổn sự hải thuở quá khứ tất cả Bồ-tát tu viên mãn Trí ba-la-mật. Tất cả những bổn sự hải như vậy thảy đều đầy khắp quảng đại pháp giới.
Khi đã đến chỗ đức Phật, chư Bồ-tát đảnh lễ chân đức Phật, liền ở Thượng phương hóa làm lâu các kim cang tạng trang nghiêm, và tòa sư tử liên hoa tạng đế thanh kim cang vương, dùng lưới bảo quang minh ma-ni vương choàng trên thân, dùng ma-ni bảo vương diễn thuyết tam thế Như Lai danh hiệu làm minh châu trên mão, cùng các quyến thuộc ngồi kiết già trên tòa đó.
Mười phương tất cả Bồ-tát và quyến thuộc đều từ trong hạnh nguyện của Phổ Hiền Bồ-tát mà sanh, dùng trí nhãn thanh tịnh thấy tam thế Phật, khắp nghe tu-đa-la hải của chư Phật chuyển pháp luân, đã được đến nơi tất cả Bồ-tát tự tại bỉ ngạn. Trong mỗi niệm hiện đại thần biến. Gần gũi tất cả chư Phật Như Lai. Một thân đầy khắp tất cả chúng hội đạo tràng của tất cả Như Lai trong tất cả thế giới. Trong mỗi vi trần hiện khắp tất cả cảnh giới thế gian.
Giáo hóa thành tựu tất cả chúng sanh chưa từng lỗi thời. Trong một lỗ lông phát ra âm thanh thuyết pháp của tất cả Như Lai. Biết tất cả chúng sanh thảy đều như huyễn. Biết tất cả đức Phật thảy đều như ảnh. Biết tất cả loài thọ sanh thảy đều như mộng. Biết tất cả nghiệp báo thảy đều như tượng trong gương. Biết tất cả những gì có sanh khởi thảy đều như ánh nắng gắt. Biết tất cả thế giới đều như biến hóa. Thành tựu Thập lực vô úy của đức Như Lai. Dũng mãnh tự tại hay sư tử hống. Vào sâu trong biển cả vô tận biện tài. Được ngôn từ hải của tất cả chúng sanh. Những pháp trí nơi hư không pháp giới, việc làm vô ngại. Biết tất cả pháp không chướng ngại. Tất cả Bồ-tát thần thông cảnh giới đều đã thanh tịnh. Dũng mãnh tinh tấn xô dẹp ma quân. Hằng dùng trí tuệ thấu rõ tam thế. Biết tất cả pháp dường như hư không, chẳng có nghịch trái cũng không chấp lấy. Dầu siêng tinh tấn mà biết Nhất thiết trí trọn không chỗ đến. Dầu quán cảnh giới mà biết tất cả những gì có đều là bất khả đắc. Dùng trí phương tiện nhập tất cả pháp giới. Dùng trí bình đẳng nhập tất cả quốc độ. Dùng sức tự tại khiến tất cả thế giới xoay vần nhập nhau. Xứ xứ thọ sanh trong tất cả thế giới. Thấy những loại hình tướng của tất cả thế giới. Nơi cảnh vi tế hiện cõi quảng đại. Nơi cảnh quảng đại hiện cõi vi tế Nơi một chỗ đức Phật, trong khoảng một niệm được tất cả đức Phật oai thần gia hộ. Thấy khắp mười phương không bị mê lầm. Trong khoảng sát-na đều có thể qua đến.
Tất cả Bồ-tát có công đức trí tuệ vô biên như vậy ngồi đầy trong rừng Thệ-đa. Đây là nương thần lực của đức Như Lai.
Phần này nói mười phương Bồ-tát đều quy tụ về đây để nghe đức Phật Thích-ca thuyết pháp. Đây là phần họp chúng, chưa nói phần giảng pháp. Chúng ta thấy trong kinh Hoa Nghiêm mỗi lần đức Phật giảng pháp đều là mười phương Bồ-tát quy tụ, hàm ý mỗi pháp hội đều viên mãn mười phương, không phải chỉ riêng mỗi nơi một phần. Mỗi vị Bồ-tát đều trang nghiêm bằng mây, nhạc và hải v.v… để nói lên sự trang nghiêm đẹp đẽ vô lượng của các ngài.
Bồ-tát mười phương đến dự hội đều có những công đức lớn vì Từ trong hạnh nguyện Phổ Hiền Bồ-tát mà sanh, dùng trí nhãn thanh tịnh thấy tam thế Phật v.v… Tất cả những vị Bồ-tát sanh trong hạnh nguyện Phổ Hiền đều là những vị Bồ-tát thượng thủ được Sai biệt trí, giáo hóa chúng sanh đầy đủ viên mãn công hạnh, không phải hàng Bồ-tát sơ phát tâm. Công đức của các ngài vĩ đại như vậy đều do sự tu hành nhiều đời nhiều kiếp, nên ở đây tán dương công đức mười phương chư Bồ-tát đồng câu hội.
Lúc đó chứ thượng thủ đại Thanh văn, các Trưởng lão: Xá-lợi-phất, Đại Mục-kiền-liên, Ma-ha Ca-diếp, Ly-bà-đa, Tu-bồ-đề, A-nậu-lâu-đà, Nan-đà, Kiếp-tân-na, Ca-chiên-diên, Phú-lâu-na v.v… Chư đại Thanh văn này ở tại rừng Thệ-đa mà đều chẳng thấy thần lực của Như Lai. Chẳng thấy sự nghiêm hảo của Như Lai. Chẳng thấy cảnh giới của Như Lai. Chẳng thấy sự du hý của Như Lai. Chẳng thấy sự thần biến của Như Lai. Chẳng thấy sự tôn thắng của Như Lai. Chẳng thấy sự diệu hạnh và oai đức của Như Lai. Chẳng thấy sự trụ trì của Như Lai. Chẳng thấy cõi thanh tịnh của Như Lai. Lại cũng chẳng thấy cảnh giới Bồ-tát bất tư nghì, Bồ-tát đại hội, Bồ-tát phổ nhập, Bồ-tát phổ chí, Bồ-tát phổ nghệ, Bồ-tát thần biến, Bồ-tát du hý, Bồ-tát quyến thuộc, Bồ-tát phương sở, Bồ-tát trang nghiêm sư tử tòa, Bồ-tát cung điện, Bồ-tát trụ xứ, Bồ-tát nhập tam-muội tự tại, Bồ-tát quán sát, Bồ-tát tần thân, Bồ-tát dũng mãnh, Bồ-tát cúng dường, Bồ-tát thọ ký, Bồ-tát thành thục, Bồ-tát dũng kiện, Bồ-tát pháp thân thanh tịnh, Bồ tát trí thân viên mãn, Bồ-tát nguyện thân thị hiện, Bồ-tát sắc thân thành tựu, Bồ-tát tướng hảo cụ túc thanh tịnh, Bồ-tát quang minh thường nhiều màu trang nghiêm, Bồ tát phóng lưới đại quang minh, Bồ-tát khởi mây biến hóa, Bồ-tát thân khắp mười phương, Bồ-tát các hạnh viên mãn. Những sự như vậy, tất cả Thanh văn đại A-la-hán thảy đều không thấy.
Tại sao vậy? Vì thiện căn chẳng đồng. Vì vốn không tu tập thiện căn thấy Phật tự tại. Vì vốn chẳng khen nói công đức thanh tịnh của tất cả Phật độ ở mười phương. Vì vốn chẳng ca ngợi những thần biến của chư Phật Thế Tôn. Vì vốn chẳng ở trong sanh tử phát tâm vô thượng Bồ-đề. Vì vốn chẳng làm cho kẻ khác phát tâm Bồ-đề. Vì vốn chẳng có thể làm cho chủng tánh Như Lai không đoạn tuyệt. Vì vốn chẳng nhiếp thọ chúng sanh. Vì vốn chẳng khuyên kẻ khác tu hạnh ba-la-mật của Bồ-tát. Vì lúc ở trong sanh tử lưu chuyển, vốn chẳng khuyên bảo chúng sanh cầu đại trí nhãn tối thắng. Vì vốn chẳng tu tập thiện căn phát sanh Nhất thiết trí. Vì vốn chẳng thành tựu thiện căn xuất thế của Như Lai. Vì vốn chẳng được trí thần thông nghiêm tịnh Phật độ. Vì vốn chẳng được cảnh sở tri của Bồ tát nhãn. Vì vốn chẳng cầu những thiện căn siêu xuất thế gian bất cộng Bồ-đề. Vì vốn chẳng phát đại nguyện. Vì sanh ra vốn chẳng từ sự gia bị của đức Như Lai. Vì vốn chẳng biết tất cả pháp như huyễn, chư Bồ-tát như mộng. Vì vốn chẳng được sự hoan hỷ quảng đại của chư đại Bồ-tát. Những điều trên đây đều là cảnh giới trí nhãn Phổ Hiền Bồ-tát chẳng cùng chung với tất cả hàng Nhị thừa. Do cớ này, nên chư đại Thanh văn không thấy được, chẳng biết được, chẳng nghe được, chẳng nhập được, chẳng chứng được, chẳng niệm được, chẳng quán sát được, chẳng tính lường được, chẳng tư duy được, chẳng phân biệt được. Thế nên dầu cũng ở trong rừng Thệ đa mà chẳng thấy được những đại thần biến của Như Lai.
Lại vì chư đại Thanh văn không có thiện căn như vậy, không có trí nhãn như vậy, không có tam-muội như vậy, không có giải thoát như vậy, không có thần thông như vậy, không có oai đức như vậy, không có thế lực như vậy, không có tự tại như vậy, không có trụ xứ như vậy, không có cảnh giới như vậy, vì thế nên ở nơi đây không biết được, không thấy được, không nhập được, không chứng được, không trụ được, không hiểu được, không quán sát được, không nhẫn thọ được, không xu hướng được, không noi theo được.
Lại cũng vì chẳng có thể vì người khác mà khai diễn giải thoát, tán thán thị hiện dắt dìu khuyến tấn, cho họ xu hướng, cho họ tu tập, cho họ an trụ, cho họ chứng nhập.
Tại sao vậy? Vì chư đại đệ tử y theo Thanh văn thừa mà xuất ly, thành tựu Thanh văn đạo, đầy đủ Thanh văn hạnh, an trụ Thanh văn quả. Nơi chân đế vô hữu được quyết định trí, trụ luôn nơi thật tế rất ráo tịch tịnh, lìa xa đại bi, bỏ các chúng sanh an trụ nơi việc của mình. Nơi trí tuệ kia chẳng chứa nhóm được, chẳng tu hành được, chẳng an trụ được, chẳng nguyện cầu được, chẳng thành tựu được, chẳng thanh tịnh được, chẳng xu nhập được, chẳng thông đạt được, chẳng thấy biết được, chẳng chứng đắc được. Vì thế nên dầu ở trong rừng Thệ đa mà chẳng thấy được thần biến quảng đại của đức Như Lai.
Phần này diễn tả các vị Thanh văn cũng đồng trong hội chúng, đồng nghe đức Phật thuyết pháp, nhưng không thấy những thần biến quảng đại của Phật, những sự dị thường hy hữu của chư Bồ-tát mười phương. Tại sao? Vì thiện căn các ngài không đồng, tu tập không đồng, phước đức không đồng v.v… nên không thấy được những điều đó.
Chư Bồ-tát học theo hạnh của Phật, làm theo công đức của Phật đã làm, cho nên những việc của Phật hiện ra, các ngài thấy và cảm thông một cách dễ dàng. Thanh văn cũng học giáo lý của Phật nhưng không thực hành theo hạnh đại bi của Phật. Các ngài chỉ cầu giải thoát mà không có hạnh độ sanh quảng đại, nên chưa cảm thông với Phật. Đức Phật và chư Bồ-tát cảm thông nhau trên phương diện giải thoát cứu cánh Phật thừa, còn hàng Thanh văn thì mới giải thoát ngã chấp của Nhị thừa. Vì thế các ngài chưa cảm thông những điều lạ thường trong hội này.
Chư Phật tử! Như ở bờ sông Hằng, có trăm ngàn ức vô lượng ngạ quỷ lõa lồ đói khát, khắp mình lửa cháy. Những quạ, kên kên, chó sói đua nhau rượt bắt. Các ngạ quỷ này vì quá khát muốn tìm nước uống, nhưng dầu ở bên sông mà chẳng thấy nước. Cũng có kẻ thấy sông nhưng lại thấy khô cạn.
Tại sao vậy? Vì các ngạ quỷ này bị nghiệp chướng sâu nặng che mờ. Cũng vậy, chư đại Thanh văn dầu đến ở trong rừng Thệ đa mà chẳng thấy thần lực quảng đại của đức Như Lai. Vì bỏ Nhất thiết chủng trí, bị màn vô minh che lòa đôi mắt. Vì chẳng từng gieo trồng những thiện căn Nhất thiết chủng trí.
Ví như có người ở giữa đại hội ngủ say chiêm bao thấy trên đảnh núi Tu-di, Thiên đế ngự nơi thành Thiện Kiến, cung điện vườn cây các thứ nghiêm tốt.
Ngàn muôn ức thiên tử thiên nữ. Thiên hoa rải khắp mọi nơi. Những y thọ sanh ra y phục đẹp. Những hoa thọ đơm nở hoa đẹp. Những âm nhạc thọ trổi thiên âm nhạc. Những thiên thể nữ ca ngâm tiếng tốt. Vô lượng chư thiên ở trong đó vui chơi. Người nằm mộng này tự thấy mặc thiên y đi dạo khắp Thiên cung.
Ở trong đại hội tất cả mọi người dầu đồng ở một chỗ mà chẳng thấy chẳng biết cảnh giới Thiên cung như vậy. Cũng vậy, tất cả Bồ-tát vì từ lâu chứa nhóm thiện căn, vì phát nguyện quảng đại cầu Nhất thiết chủng trí, vì học tập tất cả Phật công đức, vì tu hành đạo trang nghiêm của Bồ-tát, vì viên mãn pháp Nhất thiết chủng trí, vì đầy đủ những hạnh nguyện Phổ Hiền, vì xu nhập trí địa của tất cả Bồ-tát, vì du hý những tam-muội sở trụ của tất cả Bồ-tát, vì đã có thể quán sát cảnh giới trí tuệ của tất cả Bồ tát không chướng ngại. Do đây nên đều thấy thần biến tự tại bất tư nghì của Như Lai Thế Tôn.
Tất cả Thanh văn đều chẳng thấy được, đều chẳng biết được, vì không có thanh tịnh nhãn của Bồ tát. Ví như núi Tuyết đủ những dược thảo, lương y đến đó đều có thể phân biệt biết. Còn những thợ săn, những người chăn súc vật thường ở trên đó mà chẳng thấy biết được thuốc hay, Đây cũng như vậy, bởi chư Bồ-tát nhập trí cảnh giới đủ sức tự tại, có thể thấy thần biến quảng đại của đức Như Lai.
Chư Thanh văn đại đệ tử chỉ cầu tự lợi chẳng muốn lợi tha, chỉ cầu tự an chẳng muốn an tha, nên dầu ở trong rừng Thệ đa mà chẳng thấy chẳng biết. Ví như trong đất có mỏ thất bảo. Nhà bác học trí tuệ sáng suốt, có thể khéo phân biệt biết thấy những mỏ báu đó. Người này có đại phước đức nên tùy ý lấy dùng tự tại, phụng dưỡng cha mẹ, cung cấp kẻ nghèo bệnh cơ hàn cô độc.
Những người không trí tuệ không phước đức dầu cũng đến chỗ mỏ báu mà chẳng biết chẳng thấy chẳng được lợi ích. Cũng vậy, chư đại Bồ-tát có trí nhãn thanh tịnh có thể nhập cảnh giới thậm thâm bất tư nghì, thấy được thần lực của Phật, nhập được các pháp môn, du hành được tam-muội hải, hay cúng dường chư Phật, hay dùng chánh pháp khai ngộ chúng sanh, hay dùng Tứ nhiếp pháp nhiếp thọ chúng sanh.
Chư đại Thanh văn chẳng thấy được thần lực của chư Phật, cùng chẳng thấy được chúng Bồ-tát. Ví như người mù đến chỗ châu bảo, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm vẫn chẳng thấy được châu bảo, Vì không thấy nên không lấy được, chẳng dùng được. Đây cũng như vậy, chư đại đệ tử Thanh văn dầu ở rừng Thệ đa thân cận đức Thế Tôn mà chẳng thấy thần lực tự tại của đức Thế Tôn, cũng chẳng thấy được đại hội Bồ-tát, vì không có tịnh nhãn vô ngại của đại Bồ-tát, nên chẳng có thể thứ đệ ngộ nhập pháp giới thấy thần lực tự tại của đức Như Lai.
Ví như có người được thanh tịnh nhãn gọi là ly cấu quang minh, tất cả màu tối không làm chướng được. Bấy giờ ở trong đêm tối có vô lượng ức người, hoặc đi, hoặc đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hình tướng oai nghi. Người này ở trong đại chúng đó đều thấy biết rõ ràng. Còn đại chúng đó lại không thấy biết oai nghi tấn thối của người minh nhãn này. Cũng vậy, đức Phật thành tựu trí nhãn thanh tịnh vô ngại thấy rõ tất cả thế gian.
Đức Phật thị hiện thần thông biến hóa, chúng đại Bồ-tát câu hội. Hàng đại đệ tử Thanh văn đều chẳng thấy được. Ví như Tỳ-kheo ở giữa đại chúng nhập biến xứ định. Những là địa biến xứ định, thủy biến xứ định, hỏa biến xứ định, phong biến xứ định, thanh biến xứ định, huỳnh biến xứ định, xích biến xứ định, bạch biến xứ định, thiên biến xứ định, chúng sanh thân biến xứ định, ngữ ngôn âm thanh biến xứ định, cảnh duyên biến xứ định. Người nhập định này thấy những cảnh đó. Những người khác không thấy được. Chỉ trừ người trụ trong chánh định này. Cũng vậy, đức Như Lai hiện Phật cảnh giới bất tư nghì, Bồ-tát thấy cả, Thanh văn chẳng thấy.
Ví có người dùng thuốc ẩn thân tự thoa lên mắt, ở trong chúng hội tới lui ngồi đứng, không ai thấy được. Người này thời thấy tất cả những sự trong đại chúng. Cũng vậy, đức Như Lai siêu quá thế gian, thấy khắp thế gian. Chẳng phải hàng Thanh văn thấy được. Chỉ trừ chư đại Bồ-tát xu hướng cảnh giới Nhất thiết trí.
Như người khi đã sanh ra thời có hai thiên thần hằng theo kề. Một thiên thần hiệu Đồng Sanh. Một thiên thần hiệu Đồng Danh. Thiên thần thường thấy người. Người thời chẳng thấy được thiên thần. Cũng vậy đức Như Lai ở trong đại hội Bồ-tát hiện đại thần thông. Chư đại Thanh văn đều chẳng thấy được.
Ví như Tỳ-kheo được tâm được tâm tự tại nhập diệt tận định, sáu căn chẳng hiện hành, chẳng hay chẳng biết tất cả ngữ ngôn. Vì định lực chấp trì nên chẳng nhập diệt. Cũng vậy, tất cả đại Thanh văn dầu ở tại rừng Thệ-đa, đủ cả sáu căn mà đối với những sự tự tại của Như Lai cùng chúng hội Bồ-tát, chẳng biết chẳng thấy, chẳng hay chẳng nhập.
Tại sao vậy? Vì cảnh giới của đức Như Lai thậm thâm quảng đại, khó thấy, khó biết, khó suy, khó lường. Siêu xuất thế gian chẳng thể nghĩ bàn, chẳng gì làm hoại được. Chẳng phải cảnh giới của hàng Nhị thừa. Vì thế nên Như Lai tự tại thần lực và chúng hội Bồ-tát cùng rừng Thệ-đa, cùng khắp tất cả thanh tịnh thế giới. Những sự như vậy, chư đại Thanh văn đều chẳng thấy biết, vì họ chẳng phải căn khí này.
Đoạn này dùng mười thí dụ để nói rõ sự khác biệt giữa Bồ-tát và Thanh văn đối với thần lực của Phật. Khăn Thí dụ thứ nhất, như ngạ quỷ ở bên bờ sông Hằng mà không thấy nước để uống. Hàng Thanh văn cũng vậy, tuy ở trong đại hội nhưng không thấy thần biến của Phật.
Thí dụ thứ hai, như có người ở giữa đại hội ngủ say, chiêm bao thấy lên cung trời Đế thích mà những người chung quanh không bao giờ thấy.
Thí dụ thứ ba, ở trên núi tuyết có những thứ thuốc hay mà chỉ có lương y mới biết, còn các chú chăn bò chăn trâu không bao giờ biết.
Thí dụ thứ tư, như có mỏ vàng mỏ bạc, các kỹ sư, tìm ra được, còn người quê dốt thì không tìm ra được.
Thí dụ thứ năm, như người mù đến chỗ châu báu, tuy rằng đi đứng nằm ngồi ở đó nhưng chưa từng thấy biết.
Thí dụ thứ sáu, người được thanh tịnh nhãn gọi là ly cấu quang minh, thì tất cả màu tối đều không chướng ngại. Người đó tới đâu cũng đều thấy biết rõ ràng, còn đại chúng thì không biết.
Thí dụ thứ bảy, như những vị Tỳ-kheo nhập biến xứ định, khi quán đất thì thấy toàn thể là đất, quán nước thì thấy toàn thể là nước… còn người không nhập định đó thì không thấy.
Thí dụ thứ tám, như người dùng thuốc ẩn thân thoa mắt, thì thấy người khác mà người khác không thấy họ.
Thí dụ thứ chín, như người sanh ra có hai thiên thần theo kề, thiên thần thấy họ mà họ không thấy thiên thần.
Thí dụ thứ mười, như Tỳ-kheo được tâm tự tại nhập Diệt tận định. Nhờ sức định duy trì sắc thân nhưng không biết cảnh giới bên ngoài.
Tóm lại, mười thí dụ để nói lên hàng Thanh văn tuy ở trong đại hội nhưng không thấy oai thần của Phật và chư vị Bồ-tát, chỉ có Bồ-tát mới thấy thôi.
Lúc đó, Tỳ-lô-giá-na Nguyện Quang Minh Bồ-tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Các ngài nên quán sát
Phật đạo bất tư nghìn
Nơi rừng Thệ đa này
Thị hiện thần thông lực.
Oai thần lực của Phật
Biến hiện vô ương số
Tất cả các thế gian
Mê lầm chẳng rõ được.
Pháp vương pháp thâm diệu
Vô lượng khó nghĩ bàn
Hiện ra những thần thông
Thế gian chẳng lường được.
Vì biết pháp vô tướng
Thế nên gọi là Phật
Mà đủ tướng trang nghiêm
Xưng dương chẳng kể hết.
Nay ở trong rừng này
Thị hiện đại thần lực
Rất sâu vô biên lượng
Ngôn từ không biện được.
Ngài xem đại oai đức
Vô lượng chúng Bồ-tát
Mười phương những quốc độ
Mà đến thấy Thế Tôn.
Chỗ nguyện đều đầy đủ
Chỗ làm không chướng ngại
Tất cả các thế gian
Không ai suy lường được.
Tất cả chư Duyên giác
Và đại Thanh văn kia
Thảy đều chẳng biết được
Bồ-tát hạnh cảnh giới.
Bồ-tát đại trí tuệ
Các địa đều rốt ráo
Dựng cao tràng dũng mãnh
Khó xô khó động được.
Những bậc đại Danh xưng
Vô lượng tam-muội lực
Hiện ra những thần biến
Pháp giới đều sung mãn.
Bấy giờ, Bất Khả Hoại Tinh Tấn Vương Bồ-tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Ngài xem các Phật tử
Trí tuệ tạng công đức
Rốt ráo hạnh Bồ-đề
An ổn các thế gian.
Tâm ngài vốn minh đạt
Khéo nhập những tam-muội
Trí tuệ vô biên tế
Cảnh giới không lường được.
Nay rừng Thệ-đa này
Mọi sự đều nghiêm sức
Chúng Bồ-tát vân tập
Thân cận bên Như Lai.
Ngài xem vô lượng chúng
Những bậc vô sở trước
Mười phương đến chỗ này
Ngồi tòa bảo liên hoa.
Không đến cũng không ở
Không dựa không hý luận
Tâm ly cấu vô ngại
Rốt ráo nơi pháp giới.
Kiến lập tràng trí tuệ
Kiên cố chẳng động lay
Biết pháp không biến hóa
Mà hiện sự biến hóa.
Mười phương vô lượng cõi
Tất cả chỗ chư Phật
Đồng thời đều qua đến
Mà cũng chẳng phân thân.
Ngài xem Thích Sư Tử
Sức thần thông tự tại
Hay khiến chúng Bồ-tát
Tất cả đều đến họp.
Tất cả những Phật pháp
Pháp giới đều bình đẳng
Ngôn thuyết nên chẳng đồng
Chúng này đều thông đạt.
Chư Phật thường an trụ
Pháp giới bình đẳng tế
Diễn nói pháp sai biệt
Ngôn từ vô cùng tận.
Bấy giờ, Phổ Thắng Vô thượng Oai Đức Vương Bồ-tát thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Ngài xem Vô thượng sĩ
Trí quảng đại viên mãn
Khéo đạt thời phi thời
Vì chúng diễn thuyết pháp.
Xô dẹp chúng ngoại đạo
Tất cả những dị luận
Khắp tùy tâm chúng sanh
Vì hiện thần thông lực.
Chánh giác chẳng hữu lượng
Cũng lại chẳng vô lượng
Hoặc lượng, hoặc vô lượng
Mâu-ni đều siêu việt.
Như mặt nhật trên không
Soi đến tất cả xứ
Phật trí cũng như vậy
Rõ thấu tam thế pháp.
Ví như chính đêm rằm
Vầng trăng không thiếu khuyết
Như Lai cũng như vậy
Bạch pháp đều viên mãn.
Như mặt nhật trên không
Vận hành không tạm ngừng
Như Lai cũng như vậy
Thần biến thường tương tục.
Như mười phương quốc độ
Hư không chẳng chướng ngại
Thế đăng hiện biến hóa
Nơi thế cũng như vậy.
Ví như đất thế gian
Chỗ nương của muôn loại
Chiếu thế đăng pháp luân
Làm chỗ nương cũng vậy.
Ví như gió lốc mạnh
Thổi đi không chướng ngại
Phật pháp cũng như vậy
Mau khắp ở thế gian.
Ví như đại thủy luân
Thế giới nương trên đó
Trí tuệ luân cũng vậy
Chỗ nương của chư Phật.
Bấy giờ, Vô Ngại Thắng Tạng Vương Bồ-tát thừa thần lực của Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Ví như đại bảo sơn
Lợi ích các hàm thức
Phật sơn cũng như vậy
Lợi ích khắp thế gian.
Ví như đại hải thủy
Đứng sạch không nhơ bợn
Thấy Phật cũng như vậy
Trừ được những khát ái.
Ví như Tu-di sơn
Ở ngay giữa đại hải
Thế Gian Đăng cũng vậy
Có từ nơi pháp hải.
Như biển đủ châu báu
Người cầu đều đầy đủ
Vô sư trí cũng vậy
Người thấy đều khai ngộ.
Như Lai trí thậm thâm
Vô lượng cũng vô số
Thế nên thần thông lực
Thị hiện khó nghĩ bàn.
Ví như nhà huyễn giỏi
Thị hiện những sự vật
Phật trí cũng như vậy
Hiện những tự tại lực.
Ví như như ý bảo
Hay thỏa mãn ý muốn
Đấng tối thắng cũng vậy
Làm mãn nguyện thanh tịnh.
Ví như minh tịnh bảo
Chiếu khắp tất cả vật
Phật trí cũng như vậy
Chiếu khắp tâm quần sanh.
Ví như bát diện bảo
Soi khắp cả các phương
Vô Ngại Đăng cũng vậy
Chiếu khắp cả pháp giới.
Ví như thủy thanh châu
Hay làm trong nước đục
Thấy Phật cũng như vậy
Sáu căn đều thanh tịnh.
Bấy giờ, Hóa Hiện Pháp Giới Nguyện Nguyệt Vương Bồ-tát thừa Phật thần lực quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Ví như đế thanh bảo
Hay làm xanh các màu
Người thấy Phật cũng vậy
Đều phát hạnh Bồ-đề.
Trong mỗi mỗi vị trần
Phật hiện thần thông lực
Khiến vô lượng vô biên
Bồ-tát đều thanh tịnh.
Sức thậm thâm vi diệu
Vô biên chẳng thể biết
Cảnh giới của Bồ-tát
Thế gian chẳng lường được.
Đức Như Lai hiện thân
Tướng thanh tịnh trang nghiêm
Vào khắp những pháp giới
Thành tựu các Bồ-tát.
Nan tư Phật quốc độ
Trong đó thành Chánh giác
Tất cả chư Bồ-tát
Thế chủ đều đầy dẫy.
Đấng Thích-ca vô thượng
Nơi pháp đều tự tại
Thị hiện thần thông lực
Vô biên chẳng lường được.
Bồ-tát những công hạnh
Vô lượng cùng vô tận
Như Lai tự tại lực
Vì Bồ-tát mà hiện.
Phật tử khéo tu học
Những pháp giới thậm thâm
Thành tựu trí vô ngại
Biết rõ tất cả pháp.
Thiện Thệ oai thần lực
Vì chúng chuyển pháp luân
Thần biến khắp sung mãn
Khiến thế gian thanh tịnh.
Như Lai trí viên mãn
Cảnh giới cũng thanh tịnh
Ví như đại Long vương
Giúp khắp các quần sanh.
Bấy giờ, Pháp Huệ Quang Diệm Vương Bồ-tát, thừa thần lực của đức Phật, quán sát khắp mười phương rồi nói kệ rằng:
Tam thế chư Như Lai
Thanh văn đại đệ tử
Đều chẳng biết được Phật
Sự cất chân hạ chân.
Quá khứ, hiện, vị lai
Tất cả hàng Duyên giác
Cũng chẳng biết Như Lai
Sự cất chân hạ chân.
Huống là các phàm phu
Kiết sử luôn buộc ràng
Vô minh che tâm thức
Mà biết được Đạo sư.
Chánh giác trí vô ngại
Siêu quá đường ngữ ngôn
Lượng kia chẳng lường được
Có ai thấy biết được.
Ví như minh nguyệt sáng
Không lường biên tế được
Phật thần thông cũng vậy
Chẳng thấy chung tận được.
Mỗi mỗi những phương tiện
Niệm niệm chỗ biến hóa
Đều trong vô lượng kiếp
Tư duy chẳng biết được.
Suy gẫm Nhất thiết trí
Pháp chẳng thể nghĩ bàn
Mỗi mỗi môn phương tiện
Chẳng biết được biên tế.
Nếu ai ở pháp này
Mà phát nguyện rộng lớn
Ở nơi cảnh giới này
Thấy biết chẳng khó lắm.
Dũng mãnh siêng tu tập
Biển pháp lớn khó nghĩ
Tâm đó không chướng ngại
Vào môn phương tiện này.
Tâm ý đã điều phục
Chí nguyện cũng rộng rãi
Sẽ được đại Bồ-đề
Cảnh giới rất tối thắng,
Bấy giờ, Phá Nhất Thiết Ma Quân Trí Tràng Vương Bồ-tát thừa thần lực của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Trí thân chẳng phải thân
Vô ngại khó nghĩ bàn
Dầu có ai nghĩ bàn
Tất cả không đến được.
Từ bất tư nghì nghiệp
Khởi thân thanh tịnh này
Thù đặc diệu trang nghiêm
Chẳng chấp nơi ba cõi.
Quang minh chiếu tất cả
Pháp giới đều thanh tịnh
Nghe Phật Bồ-đề môn
Xuất sanh những trí tuệ.
Như mặt nhật thế gian
Phóng ánh sáng trí tuệ
Xa rời những trần cấu
Diệt trừ tất cả chướng.
Thanh tịnh khắp ba cõi
Tuyệt hẳn dòng sanh tử
Thành tựu đạo Bồ-đề
Xuất sanh Vô thượng giác.
Thị hiện vô biên sắc
Sắc này không sở y
Sở hiện dầu vô lượng
Tất cả bất tư nghì,
Bồ-đề khoảng một niệm
Hay giác ngộ các pháp
Sao lại muốn nghĩ lường
Như Lai trí biên tế.
Một niệm đều thấu rõ
Tất cả pháp tam thế
Nên nói Phật trí tuệ
Vô tận cũng vô hoại.
Người trí phải như vậy
Chuyên gẫm Phật Bồ-đề
Gẫm này khó nghĩ bàn
Suy đó chẳng thể được.
Bồ-đề không thể nói
Siêu quá đường ngữ ngôn
Chư Phật từ đây sanh
Pháp này khó nghĩ bàn.
Bấy giờ Nguyện Trí Quang Minh Tràng Vương Bồ-tát, thừa thần lực của đức Phật, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Nếu khéo quán sát được
Bồ-đồ vô tận hải
Thời lìa được niệm si
Quyết định thọ trì pháp.
Nếu được tâm quyết định
Thời hay tu diệu hạnh
Thiền tịch tự tư lự
Dứt hẳn những nghi hoặc.
Tâm đó chẳng mỏi mệt
Lại cũng chẳng biếng lười
Lần lượt tăng tấn tu
Rốt ráo những Phật pháp.
Tín trí đã thành tựu
Niệm niệm khiến tăng trưởng
Thường thích thường quán sát
Pháp vô đắc vô y.
Vô lượng ức ngàn kiếp
Tu những công đức hạnh
Tất cả đều hồi hướng
Đạo Vô thượng của Phật.
Dầu ở nơi sanh tử
Mà tâm không nhiễm trước
An trụ trong Phật pháp
Thường thích Như Lai hạnh.
Những sự có thế gian
Những pháp uẩn, xứ giới
Tất cả đều bỏ lìa
Chuyên cầu Phật công đức.
Phàm phu bị mê lầm
Thường lưu chuyển thế gian
Bồ-tát tâm vô ngại
Cứu họ được giải thoát.
Bồ-tát hạnh khó nói
Thế gian chẳng suy được
Trừ khắp tất cả khổ
Khắp ban quần sanh vui.
Đã được Bồ-đề trí
Lại thương các chúng sanh
Quang minh chiếu thế gian
Độ thoát tất cả chúng.
Bấy giờ, Phá Nhất Thiết Chướng Dũng Mãnh Trí Vương Bồ-tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Vô lượng ức ngàn kiếp
Phật danh khó được nghe
Huống lại được thân cận
Dứt hẳn những nghi lầm.
Như Lai thế gian đăng
Thông đạt tất cả pháp
Khắp sanh phước tam thế
Khiến chúng đều thanh tịnh.
Như Lai diệu sắc thân
Tất cả chúng kính khen
Ức kiếp thường chiêm ngưỡng
Tâm họ không nhàm đủ.
Nếu có các Phật tử
Quán Phật diệu sắc thân
Tất bỏ luyến thế gian
Hướng về Bồ đề đạo.
Như Lai diệu sắc thân
Hằng diễn quảng đại âm
Biện tài không chướng ngại
Khai Phật Bồ-đề môn.
Hiểu ngộ các chúng sanh
Vô lượng chẳng nghĩ bàn
Khiến vào môn trí tuệ
Được thọ ký Bồ-đề.
Như Lai xuất thế gian
Làm phước điền thế gian
Dắt dẫn các hàm thức
Khiến họ tu phước hạnh.
Nếu có cúng dường Phật
Trừ hẳn sợ ác đạo
Diệt trừ tất cả khổ
Thành tựu thân trí tuệ.
Nếu thấy Lưỡng Túc Tôn
Hay phát tâm quảng đại
Người này hằng gặp Phật
Tăng trưởng sức trí tuệ.
Nếu thấy Nhân Trung Tôn
Quyết ý hướng Bồ-đề
Người này tự biết được
Tất sẽ thành Chánh giác.
Mười vị Bồ-tát đại diện cho mười phương Bồ-tát quy tụ về trong hội này. Các ngài thừa thần lực của Phật, quan sát mười phương rồi lần lượt nói kệ tán thán công đức Thế Tôn. Mỗi vị đều có ý riêng để khen ngợi Phật. Chính chỗ tán thán này của chư Bồ-tát cũng là một Phật sự. Tại sao? Vì tất cả những lời khen ngợi Phật đều làm cho tín tâm của người nghe thêm lớn. Cho nên bắt đầu thời tụng kinh chúng ta đều tán thán Phật.
Chư Bồ-tát làm Phật sự nào cũng đều không cho rằng do sức mình làm, mà đều nói do thần lực của Phật gia hộ. Tại sao? Vì Bồ-tát là nhân Phật là quả, nhân quả không rời nhau.
Bấy giờ, Pháp Giới Sai Biệt Nguyện Trí Thần Thông Vương Bồ-tát, thừa Phật thần lực, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Thích-ca vô thượng tôn
Đủ tất cả công đức
Người thấy tâm thanh tịnh
Hồi hướng đại trí tuệ.
Đoạn này khen ngợi đức Thích-ca là bậc tôn quý vô thượng, đầy đủ công đức, người trông thấy tâm đều thanh tịnh, hồi hướng về trí tuệ lớn.
Như Lai đại từ bi
Xuất hiện ở thế gian
Khắp vì các quần sanh
Chuyển pháp luân vô thượng.
Lòng từ bi của Phật vô lượng, ngài thường xuất hiện ở thế gian nói pháp cứu độ chúng sanh.
Như Lai vô số kiếp
Cần khổ vì chúng sanh
Thế nào các thế gian
Báo được ơn đức Phật.
Đức Phật trải vô số kiếp tu hành độ sanh rất cần khổ, ơn của ngài thật khó đền đáp.
Thà trong vô lượng kiếp
Thọ những khổ ác đạo
Trọn chẳng bỏ Như Lai
Mà cầu nơi xuất ly.
Chúng ta biết công ơn của Phật lớn lao như vậy, trí tuệ của Phật thanh tịnh như vậy, từ bi của Phật rộng lớn như vậy, thì dù cho chịu khổ trong ba đường ác, hay ở trong cõi người, chịu những nỗi khổ mà được nghe danh hiệu Phật, được gặp pháp của Phật, được thấy Phật thì cũng sẵn sàng chịu, không bao giờ bỏ Phật mà đi nơi khác. Như có người nói mình sanh ở Việt Nam gặp thời chiến tranh thật khổ, gia đình nào cũng bị tang tóc hoặc ít hoặc nhiều, đầy dẫy chán chường. Có người nói ngược lại, tuy sanh trong thời chiến đầy cảnh khổ nhưng được gặp Phật pháp, đó là một điều hết sức quý. Giả sử sanh bên Pháp, Mỹ, Đức… được sung sướng mà không hiểu không nghe được Phật pháp, thì ở Việt Nam có phước hơn. Quan niệm của người sau phù hợp với đoạn kinh này, thà chúng ta chịu ở trong đường khổ chứ không bao giờ bỏ Như Lai.
Thà thay các chúng sanh d
Chịu đủ tất cả khổ
Trọn chẳng bỏ Như Lai
Mà cầu được an lạc.
Có thể thay các chúng sanh chịu khổ chứ không bao giờ bỏ Phật mà cầu được vui.
Thà tại các ác thú
Hằng được nghe Phật danh
Chẳng muốn sanh thiện đạo
Tạm thời chẳng nghe Phật.
Người tu nhân thập thiện thì hưởng quả sanh lên cõi trời Dục giới, tu nhân thiền định từ Sơ thiền đến Tứ thiền thì hưởng quả sanh lên cõi trời Sắc giới. Đây dạy chúng ta không mong được sanh lên các cõi trời hưởng quả vui mà không gặp Phật pháp, chẳng thà chịu ở cảnh khổ trong cõi nhân gian mà được nghe danh hiệu Phật, gặp Phật pháp tu hành.
Thà sanh các địa ngục
Mỗi mỗi vô số kiếp
Trọn chẳng xa rời Phật
Mà cầu thoát ác thú.
Cớ sao nguyện ở lâu
Tất cả các ác đạo?
Vì được thấy Như Lai
Trí tuệ được tăng trưởng.
Ở trong các cõi ác mà được thấy Phật, trí tuệ tăng trưởng còn hơn ở chỗ sung sướng mà xa rời Phật.
Nếu được thấy đức Phật
Diệt trừ tất cả khổ
Vào được cảnh đại trí
Của chư Phật Thế Tôn.
Người thấy được Phật sẽ dứt khổ và được trí tuệ lớn của chư Phật.
Nếu thấy được đức Phật
Bỏ rời tất cả chướng
Trưởng dưỡng phước vô tận
Thành tựu đạo Bồ-đề.
Người thấy Phật sẽ xa rời những chướng ngại, dần dần nuôi lớn những phước đức vô tận, thành tựu được đạo quả Bồ-đề.
Như Lai dứt hẳn được
Tất cả chúng sanh nghỉ
Tùy tâm họ sở thích
Đều khiến khắp đầy đủ.
Phật dứt tất cả nghi ngờ của chúng sanh, tùy chỗ ưa thích của họ mà dạy đầy đủ các pháp để được phước đức trí tuệ.
Mười bài kệ của mười vị Bồ-tát đều một bề khen ngợi Phật.
Bấy giờ đức Phổ Hiền Bồ-tát quán sát khắp tất cả chúng hội Bồ-tát, dùng phương tiện đồng pháp giới, phương tiện đồng hư không giới, phương tiện đồng chúng sanh giới, đồng tam thế, đồng tất cả kiếp, đồng tất cả chúng sanh nghiệp, đồng tất cả chúng sanh dục, đồng tất cả chúng sanh giải, đồng tất cả chúng sanh căn, đồng lúc tất cả chúng sanh thành thục, phương tiện đồng tất cả pháp quang ảnh, vì chư Bồ-tát, dùng mười thứ pháp cú, khai phát hiển thị, chiếu rõ diễn thuyết Sư tử tần thân tam-muội này.
Chánh định Sư tử tần thân tức là chánh định tự tại như sư tử vương, không có loài thú nào dám đến gần làm chướng ngại, nhập định này thì tất cả pháp giới không thể làm trở ngại. Bồ-tát Phổ Hiền muốn diễn tả sức định tự tại như sư tử vương của đức Phật nên dùng mười pháp cú khai diễn.
Thế nào là mười:
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong pháp giới tất cả Phật sát vi trần, chư Phật thứ đệ xuất thế các cõi, thứ đệ thành hoại.
Pháp cú thứ nhất, diễn thuyết chư Phật ra đời, các cõi thứ lớp thành hoại đồng khắp pháp giới, không riêng một nơi một cõi nào.
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, tận vị lai kiếp âm thanh tán thán công đức của Như Lai.
Pháp cú thứ hai, diễn thuyết đồng hư không giới, âm thanh tán thán công đức Như Lai đến tận kiếp vị lai.
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, Như Lai xuất thế vô lượng vô biên thành Chánh giác môn.
Pháp cú thứ ba, diễn thuyết đồng hư không giới, chư Phật mười phương thế giới ra đời, bao nhiêu pháp môn tu hành thành Chánh giác.
Diễn thuyết pháp cú có thể thị hiện đồng trong hư không giới tất cả cõi Phật, đức Như Lai ngồi đạo tràng giữa chúng hội Bồ-tát.
Pháp cú thứ tư, diễn thuyết đồng hư không giới tất cả cõi Phật, đức Như Lai ngồi đạo tràng giữa chúng hội Bồ-tát.
Diễn thuyết pháp cú nơi tất cả lỗ lông niệm niệm xuất hiện đồng tam thế, thân biến hóa của tất cả chư Phật đầy khắp pháp giới.
Pháp cú thứ năm, diễn thuyết nơi tất cả lỗ chân lông xuất hiện đồng như ba đời, thân biến hóa của chư Phật đầy cả khắp pháp giới.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho một thân đầy khắp mười phương, tất cả sát hải bình đẳng hiển hiện.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả những cảnh giới hiện khắp tam thế chư Phật thần biến.
Pháp cú thứ sáu, thứ bảy, diễn thuyết thần biến của ba đời mười phương chư Phật đều hiển hiện.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho trong tất cả Phật sát vi trần hiện khắp tam thế tất cả Phật sát vi trần số Phật, những thần biến trai qua vô lượng kiếp.
Pháp cú thứ tám, diễn thuyết trong tất cả cõi Phật nhiều như số bụi nhỏ, những thần biến trải qua Vô lượng kiếp.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho tất cả lỗ lông xuất sanh âm thanh đại nguyện hải của tất cả tam thế chư Phật, tận vị lai kiếp, khai phát hóa đạo tất cả Bồ-tát.
Pháp cú thứ chín, diễn thuyết âm thanh xuất phát từ tất cả lỗ chân lông, nguyện lớn như biển của chư Phật ba đời, khai phát hóa đạo chư Bồ-tát.
Diễn thuyết pháp cú có thể làm cho tòa sư tử của Phật lượng đồng pháp giới, chúng hội Bồ-tát, đạo tràng trang nghiêm, tận vị lai kiếp chuyển những pháp luân vi diệu.
Pháp cú thứ mười, diễn thuyết chúng hội Bồ-tát, đạo tràng trang nghiêm, chuyển pháp luân vi diệu tận vị lai kiếp.
Mười pháp cú của ngài Phổ Hiền nói lên ý nghĩa quan trọng về chánh định tự tại của đức Phật.
Chư Phật tử! Mười pháp cú này làm đầu, có bất khả thuyết Phật sát vi trần số pháp cú, đều là cảnh giới trí tuệ của đức Như Lai.
Lúc đó đức Phổ Hiền muốn tuyên lại nghĩa này, thừa Phật thần lực, quán sát đức Như Lai, quán sát chúng hội, quán sát cảnh giới khó nghĩ bàn của Phật, quán sát vô biên tam-muội của chư Phật, quán sát những thế giới hải bất tư nghì, quán sát pháp trí như huyễn bất tư nghì, quán sát tam thế chư Phật bất tư nghì thảy đều bình đẳng, quán sát vô lượng vô biên tất cả những pháp ngôn từ, rồi nói kệ rằng:
Trong mỗi mỗi lỗ lông
Vi trần số sát hải
Đều có đức Phật ngồi
Đều đủ chúng Bồ tát.
Trong mỗi mỗi lỗ lông
Vô lượng những sát hải
Phật ngự tòa Bồ-đề
Khắp pháp giới như vậy,
Trong mỗi mỗi lỗ lông
Tất cả sát trần Phật
Chúng Bồ-tát vây quanh
Phật nói hạnh Phổ Hiền.
Kinh Hoa Nghiêm thường nhắc đến hiện tượng trong mỗi lỗ chân lông đều có Phật ngồi với chúng hội Bồ-tát. Đầu tiên tại rừng Thệ-đa, đức Phật ngồi đó, mười phương Bồ-tát tụ hội về. Mỗi vị đều đem theo bao nhiêu chúng, khu rừng càng ngày càng rộng, rộng khắp hết mười phương. Bấy giờ trong mỗi lỗ chân lông đều có Phật ngự thuyết pháp, chúng Bồ-tát vây quanh. Đây là ý nghĩa Phật ở tại nơi thân chúng sanh, không cách biệt. Một lỗ chân lông lớn bằng hư không trùm cả pháp giới không hai, vì đồng nghĩa không nên không có rộng hẹp.
Phật ngồi một cõi nước
Đầy khắp mười phương cõi
Vô lượng chúng Bồ-tát
Đều vân tập chỗ Phật.
Phật ngồi một chỗ trong một cõi nước, mà mười phương cõi vô lượng chúng Bồ-tát đều vân tập về. Nơi nào có Phật là có Bồ-tát.
Ức cõi vị trần số
Bồ-tát công đức hải
Đều từ trong hội khởi
Đầy khắp mười phương cõi.
Đều trụ hạnh Phổ Hiền
Đều đi biển pháp giới
Hiện khắp tất cả cõi
Đồng nhập hội chư Phật.
Tất cả các Bồ-tát nhiều như vi trần, công đức rộng như biển đều đến trong hội của Phật lúc ngài nhập định.
Ngồi an tất cả cõi
Lắng nghe tất cả pháp
Trong mỗi mỗi quốc độ
Ức kiếp tu các hạnh.
Phật chỉ ngồi yên một chỗ mà có thể an lành bao nhiêu cõi, nghe khắp tất cả pháp. Nơi mỗi quốc độ ngài đều thị hiện sự tu hành trải qua vô lượng kiếp.
Bồ-tát chỗ tu hành
Khắp rõ pháp hải hạnh
Vào nơi đại nguyện hải
Trụ cảnh giới của Phật.
Phật rõ biết chỗ tu hành của Bồ-tát.
Thấu rõ hạnh Phổ Hiền
Xuất sanh các Phật pháp
Đủ Phật công đức hải
Rộng hiện sự thần thông.
Các ngài thấu rõ hạnh Phổ Hiền, xuất sanh các Phật pháp, đầy đủ công đức như biển của Phật, hiện thần thông rộng lớn.
Thân vân khắp trần số
Đầy khắp tất cả cõi
Khắp mưa pháp cam lộ
Cho chúng trụ Phật đạo.
Thân Phật trùm khắp cả cõi nước như số vi trần, mưa pháp cam lồ cho tất cả chúng đều an trụ trong Phật đạo. Đây là lời tán thán Phật của ngài Phổ Hiền.
Đoạn dưới đây, đức Thế Tôn muốn chư Bồ-tát an trụ trong tam-muội Sư tử tần thân quảng đại của Phật nên phóng quang minh rộng lớn.
Bấy giờ đức Thế Tôn, vì muốn cho chư Bồ-tát an trụ trong Như Lai Sư tử tần thân quảng đại tam-muội, nên từ tướng bạch hào giữa chặng mày, phóng ra quang minh lớn gọi là Phổ chiếu tam thế pháp giới môn, dùng bất khả thuyết Phật sát vi trần Số quang minh mà làm quyến thuộc, chiếu khắp chư Phật ở các cõi quốc độ trong tất cả thế giới hải ở mười phương. Lúc đó tại rừng Thệ-đa, Bồ-tát đại chúng đều thấy tất cả cõi Phật khắp pháp giới hư không giới. Trong mỗi mỗi vị trần đều có tất cả Phật sát vi trần số Phật độ những danh, những sắc, những thanh tịnh, những trụ xứ, những hình tướng.
Trong tất cả Phật độ như vậy đều có đại Bồ-tát ngồi đạo tràng trên tòa sư tử thành Đẳng chánh giác. Đại chúng Bồ-tát trước sau vây quanh. Các Thế Gian chủ thời cúng dường.
Hoặc thấy ở trong bất khả thuyết Phật sát chúng hội phát ra âm thanh vi diệu đầy khắp pháp giới chuyển chánh pháp luân.
Hoặc thấy tại Thiên cung điện, Long cung điện, Dạ-xoa cung điện, trong những cung diện của Càn thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già, Nhân, Phi nhân.
Hoặc thấy tại nhân gian: Thôn ấp, tụ lạc, vương đô, đại xứ mà hiện những họ, những tên, những thân, những tướng, những quang minh. Trụ những oai nghi, nhập những tam-muội, hiện những thần biến. Hoặc có lúc tự dùng những ngôn âm, hoặc làm cho những Bồ-tát ở trong những đại hội, dùng những ngôn từ thuyết những chánh pháp.
Trong hội này, đại chúng Bồ-tát thấy thậm thâm tam-muội đại thần thông lực, của chư Phật Như Lai như vậy.
Khắp pháp giới hư không giới, trong tất c cá mười phương, nương nơi tâm tưởng của chúng sanh mà an trụ. Bắt đầu từ tiền tế nhẫn đến hiện tại nay, tất cả quốc độ thân, tất cả chúng sanh thân, tất cả hư không đạo, trong đó, nơi chỗ bằng đầu lông, mỗi mỗi đều có vi trần số cõi, do những nghiệp mà có ra, thứ đệ an trụ cũng đều có đạo tràng. Bồ-tát chúng hội như vậy mà thấy thần lực của Phật, chẳng hoại tam thế, chẳng hoại thế gian, ở trong tâm của tất cả chúng sanh mà hiện hình tượng. Tùy theo tâm sở thích của tất cả chúng sanh mà phát ra ngôn âm vi diệu vào khắp trong tất cả chúng hội, hiện khắp trước tất cả chúng sanh. Sắc tướng có khác mà trí tuệ không khác. Tùy sở nghi mà khai thị Phật pháp, giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh chưa lúc nào nghỉ.
Những ai thấy được thần lực này, thời đều do sự nhiếp thọ của thiện căn thuở quá khứ của đức Tỳ-lô-giá-na Như Lai. Hoặc thuở xưa từng dùng pháp Tứ nhiếp để nhiếp. Hoặc là thấy nghe, nhớ nghĩ, thân cận mà được thành thục. Hoặc là ngày trước dạy cho phát tâm vô thượng Bồ-đề. Hoặc thuở xưa ở chỗ chư Phật đồng gieo căn lành. Hoặc là quá khứ dùng Nhất thiết trí thiện xảo phương tiện giáo hóa thành thục. Thế nên đều được nhập nơi bất tư nghì thậm thâm tam-muội đại thần lực khắp pháp giới hư không của Như Lai. Hoặc nhập pháp thân hoặc sắc thân, hoặc nhập hạnh đã thành tựu thuở xưa. Hoặc nhập viên mãn các môn ba-la-mật, hoặc nhập hạnh luân trang nghiêm thanh tịnh, hoặc nhập các bậc Bồ-tát, hoặc nhập sức thành Chánh giác. Hoặc nhập tam-muội vô sai biệt đại thần biến của đức Phật an trụ. Hoặc nhập trí lực, trí vô úy của Như Lai. Hoặc nhập biển vô ngại biện tài của chư Phật.
Chư Bồ-tát đó dùng những giải, những đạo, những môn, những nhập, những lý thú, những tùy thuận, những trí tuệ, những trợ đạo, những phương tiện, những tam-muội mà nhập mười bất khả thuyết Phật sát vị trần số Phật thần biến hải phương tiện môn như vậy.
Thế nào là những tam-muội?
Những là: Phổ trang nghiêm pháp giới tam-muội, Phổ chiếu nhất thiết tam thế vô ngại cảnh giới tam-muội, Pháp giới vô sai biệt trí quang minh tam-muội, Nhập Như Lai cảnh giới bất động chuyển tam-muội, Phổ chiếu vô biên hư không tam-muội, Nhập Như Lai lực tam-muội, Phật vô úy dũng mãnh phấn tấn trang nghiêm tam-muội, Nhất thiết pháp giới triển chuyển tạng tam-muội, Như nguyệt phổ hiện nhất thiết pháp giới dĩ vô ngại âm đại khai diễn tam-muội, Phổ thanh tịnh pháp quang minh tam-muội, Vô ngại tắng Pháp vương tràng tam-muội, Nhất nhất cảnh giới trung tất kiến nhất thiết chư Phật hải tam-muội, Ư nhất thiết thế gian tất hiện thân tam-muội, Nhập Như Lai vô sai biệt thân cảnh giới tam-muội, Tùy nhất thiết thế gian chuyển đại bi tạng tam-muội, Tri nhất thiết pháp vô hữu tích tam-muội, Tri nhất thiết pháp cứu cánh tịch diệt tam-muội, Tuy vô sở đắc nhi năng biến hóa phổ hiện thế gian tam-muội, Phổ nhập nhất thiết sát tam-muội trang nghiêm nhất thiết Phật sát thành Chánh giác tam-muội, Quán nhất thiết thế gian chủ sắc tướng sai biệt tam-muội, Quán nhất thiết chúng sanh cảnh giới vô chướng ngại tam-muội, Năng xuất sanh nhất thiết Như Lai mẫu tam-muội, Năng tu hành nhập nhất thiết Phật hải công đức đạo tam-muội, Nhất nhất cảnh giới trung xuất hiện thần biến tận vị lai tế tam-muội, Nhập nhất thiết Như Lai bổn sự hải tam-muội, Tận vị lai tế hộ trì nhất thiết Như Lai chủng tánh tam-muội, Dĩ quyết định giải lực linh hiện tại thập phương nhất thiết Phật sát hải giai thanh tịnh tam-muội, Nhất niệm trung phổ chiếu nhất thiết Phật sở trụ tam-muội, Nhập nhất thiết cảnh giới vô ngại tế tam-muội, Linh nhất thiết thế giới vi nhất Phật sát tam-muội, Xuất nhất thiết Phật biến hóa thân tam muội, Dĩ Kim Cang vương trí tri nhất thiết chư căn hải tam-muội, Tri nhất thiết Như Lai đồng nhất thân tam-muội, Tri nhất thiết pháp giới sở an lập tất trụ tâm niệm tế tam-muội, Ư nhất thiết pháp giới quảng đại quốc độ trung thị hiện Niết-bàn tam-muội, Linh trụ tối thượng xứ tam-muội, Ư nhất thiết Phật sát hiện chủng chủng chúng sanh sai biệt thân tam-muội, Phổ nhập nhất thiết Phật trí tuệ tam-muội, Tri nhất thiết pháp tánh tướng tam-muội, Nhất niệm phổ tri tam thế pháp tam-muội, Niệm niệm trung phổ hiện pháp giới thân tam-muội, Dĩ sư tử dũng mãnh trí tri nhất thiết Như Lai xuất hưng thứ đệ tam-muội, Ư nhất thiết pháp giới cảnh giới tuệ nhãn viên mãn tam-muội, Dũng mãnh xu hướng thập lực tam muội, Phóng nhất thiết công đức viên mãn quang minh phổ chiếu thế gian tam-muội, Bất động tạng tam-muội, Thuyết nhất pháp phổ nhập nhất thiết pháp tam-muội, Ư nhất pháp dĩ nhất thiết ngôn âm sai biệt huấn thích tam-muội, Diễn thuyết nhất thiết Phật vô nhị pháp tam-muội, Tri tam thế vô ngại tế tam-muội, Tri nhất thiết kiếp vô sai biệt tam-muội, Nhập thập lực vi tế phương tiện tam-muội, Ả nhất thiết kiếp thành tựu nhất thiết Bồ-tát hạnh bất đoạn tuyệt tam-muội, Thập phương phổ hiện thân tam-muội, Ư pháp giới tự tại thành Chánh giác tam-muội, Sanh nhất thiết an ổn thọ tam-muội, Xuất nhất thiết trang nghiêm cụ trang nghiêm hư không giới tam-muội, Niệm niệm trung xuất đẳng chúng sanh số biến hóa thân vân tam-muội, Như Lai tịnh không nguyệt quang minh tam-muội, Thường kiến nhất thiết Như Lai trụ hư không tam-muội, Khai thị nhất thiết Phật trang nghiêm tam-muội, Chiếu minh nhất thiết pháp nghĩa đăng tam-muội, Chiếu thập lực cảnh giới tam-muội, Tam thế nhất thiết Phật tràng tướng tam-muội, Nhất thiết Phật nhất mật tạng tam-muội, Niệm niệm trung sở tác giai cứu cánh tam-muội, Vô tận phước đức tạng tam-muội, Kiến vô biên Phật cảnh giới tam-muội, Kiên trụ nhất thiết pháp tam-muội, Hiện nhất thiết Như Lai biến hóa tất linh tri kiến tam-muội, Niệm niệm trung Phật nhật thường xuất hiện tam-muội, Nhất nhật trung tất tri tam thế sở hữu pháp tam-muội, Phổ âm diễn thuyết nhất thiết pháp tánh tịch diệt tam-muội, Kiến nhất thiết Phật tự tại lực tam-muội, Pháp giới khai phu liên hoa tam-muội, Quán chư pháp như hư không vô trụ xứ tam-muội, Thập phương hải phổ nhập nhất phương tam-muội, Nhập nhất thiết pháp giới vô nguyên để tam-muội, Dĩ tịch tịnh thân phóng nhất thiết quang minh tam muội, Nhất niệm trung hiện nhất thiết thần thông đại nguyện tam muội, Nhất thiết thời nhất thiết xứ thành Chánh giác tam-muội, Dĩ nhất trang nghiêm nhập nhất thiết pháp giới tam-muội, Phổ hiện nhất thiết chư Phật thân tam-muội, Tri nhất thiết chúng sanh quảng đại thù thắng thần thông trí tam-muội, Nhất niệm trung kỳ thân biến pháp giới tam-muội, Hiện nhất thừa tịnh pháp giới tam-muội, Nhập phổ môn pháp giới thị hiện đại trang nghiêm tam-muội, Trụ trì nhất thiết Phật pháp luân tam-muội, Dĩ nhất thiết pháp môn trang nghiêm nhất pháp môn tam-muội, Dĩnhân-đà-la võng nguyện hạnh nhiếp nhất thiết chúng sanh giới tam-muội, Phân biệt nhất thiết thế giới môn tam-muội, Thừa liên hoa tự tại du bộ tam-muội, Tri nhất thiết chúng sanh chủng chủng sai biệt thần thông trí tam-muội, Linh kỳ thân hằng hiện nhất thiết chúng sanh tiền tam-muội, Tri nhất thiết chúng sanh sai biệt âm thanh ngôn từ hải tam-muội, Tri nhất thiết chúng sanh sai biệt trí thần thông tam-muội, Đại bi bình đẳng tạng tam-muội, Nhất thiết Phật nhập Như Lai tế tam-muội, Quán sát nhất thiết Như Lai giải thoát xứ Sư tử tần thân tam-muội.
Bồ-tát dùng bất khả thuyết Phật sát vị trần số tam-muội như vậy mà nhập Tỳ-lô-giá-na Như Lai niệm niệm sung mãn nhất thiết pháp giới tam-muội thần biến hải.
Chư Bồ-tát đó thảy đều đầy đủ đại trí thần thông minh lợi tự tại, trụ ở trí địa, dùng những trí quảng đại quán sát khắp tất cả từ những trí tuệ chủng tánh mà sanh, Nhất thiết chủng trí thường hiện ở trước, được trí nhãn thanh tịnh rời si lòa, vì các chúng sanh làm Điều Ngự Sư, trụ Phật bình đẳng, nơi tất cả pháp không có phân biệt, thấu rõ cảnh giới, biết các thế gian tánh đều tịch diệt không có chỗ y tựa. Đến khắp cõi nước của tất cả chư Phật mà không chấp trước. Đều có thể quan sát tất cả các pháp mà chẳng trụ. Vào khắp tất cả diệu pháp cung điện mà không chỗ đến. Giáo hóa đều tất cả thế gian khắp vì tất cả chúng sanh mà hiện nơi an ổn. Trí tuệ giải thoát là chỗ đi của các ngài. Hằng dùng trí thân ở nơi ly tham, siêu việt biển hữu lậu mà hiển bày chân thật tế. Trí quang viên mãn thấy khắp các pháp. Trụ nơi tam-muội kiên cố bất động. Với các chúng sanh hằng khởi đại bi. Biết các pháp môn thảy đều như huyễn, tất cả chúng sanh thủy như mộng, tất cả Như Lai thảy đều như bóng, tất cả ngôn âm thảy đều như vang, tất cả các pháp thảy đều như hóa, có thể khéo chứa nhóm hạnh nguyện thù thắng. Trí tuệ viên mãn thanh tịnh thiện xảo tâm rất tịch tịnh. Khéo nhập tất cả cảnh giới tổng trì. Đủ sức tam-muội dũng mãnh không khiếp. Được trí nhãn sáng suốt trụ pháp giới tế. Đến chỗ vô sở đắc của tất cả pháp. Tu tập trí tuệ đại hải không bờ. Đến Trí ba-la-mật rốt ráo bỉ ngạn. Được Bát nhã ba-la-mật nhiếp trì. Dùng Thần thông ba-la-mật vào khắp thế gian. Nương Tam-muội ba-la-mật được tâm tự tại. Dùng trí chẳng điên đảo biết tất cả nghĩa. Dùng trí xảo phân biệt khai thị pháp tạng. Dùng trí hiển hiện biết rõ để giải thích văn từ. Dùng nguyện lực lớn thuyết pháp vô tận. Dùng vô sở úy để đại sư tử hống. Thường thích quán sát pháp không chỗ nương. Dùng tịnh pháp nhãn quán sát khắp tất cả. Dùng tịnh trí nguyệt chiếu thế gian thành hoại. Dùng trí tuệ quang chiếu chân thật đế. Phước đức trí tuệ như núi kim cang, tất cả ví dụ không thể đến được. Khéo quán sát các pháp tuệ căn tăng trưởng. Dũng mãnh tinh tấn xô dẹp chúng ma. Vô lượng trí tuệ oai quang xí thạnh. Thân của các ngài siêu xuất tất cả thế gian. Được trí tuệ vô ngại đối tất cả pháp. Khéo hay tỏ ngộ ngằn mé tận vô tận. Trụ ở ngằn mé phổ biến nhập vào ngằn mé chân thật. Quán trí vô tướng thường hiện ra trước. Thiện xảo thành tựu các hạnh Bồ-tát. Dùng trí vô nhị biết các cảnh giới. Thấy khắp tất cả những loài ở thế gian. Trụ khắp tất cả quốc độ của chư Phật. Trí đăng viên mãn, với tất cả pháp không bị chướng ngại. Phóng tịnh pháp quang chiếu mười phương cõi, là phước điền chân thật của thế gian. Hoặc thấy hoặc nghe sở nguyện đều viên mãn. Phước đức cao lớn vượt hơn các thế gian. Dũng mãnh vô úy dẹp các ngoại đạo. Diễn thuyết pháp âm khắp tất cả cõi. Thấy khắp chư Phật không có lòng nhàm đủ. Nơi pháp thân của Phật đã được tự tại. Tùy cơ nghi hóa độ mà vì họ hiện thân. Một thân đầy khắp tất cả cõi Phật. Đã được thần thông thanh tịnh tự tại. Ngồi thuyền đại trí đến lui vô ngại. Trí tuệ viên mãn khắp cùng pháp giới, như mặt nhật mọc lên chiếu khắp thế gian. Tùy tâm của chúng sanh mà hiện sắc tượng, Biết rõ căn tánh dục lạc của tất cả chúng sanh. Nhập vào cảnh giới vô tránh của tất cả pháp. Biết các pháp tánh không sanh không khởi. Có thể làm pháp lớn pháp nhỏ nhập vào nhau tự tại. Quyết rõ lý thú thậm thâm của Phật địa. Dùng vô tận cú nói nghĩa thậm thâm. Ở trong một câu diễn thuyết tất cả biển tu-đa-la. Được thân đại trí tuệ đà-la-ni. Phàm những pháp đã thọ trì thời vĩnh viễn không quên mất. Một niệm có thể nhớ những sự việc trong vô lượng kiếp. Trong một niệm biết rõ trí của tất cả tam thế chúng sanh. Hằng dùng tất cả môn đà-la-ni diễn thuyết vô biên pháp hải của chư Phật. Thường chuyển pháp luân thanh tịnh bất thối, làm cho các chúng sanh đều sanh trí tuệ. Được Phật cảnh giới trí tuệ quang minh. Nhập vào nơi thiện kiến thậm thâm tam-muội. Nhập vào ngằn mé vô chướng ngại của tất cả pháp. Với tất cả pháp được thắng trí tự tại. Tất cả cảnh giới đều thanh tịnh trang nghiêm. Vào khắp tất cả pháp giới mười phương. Tùy xứ sở kia đều đến tất cả. Trong mỗi mỗi vi trần hiện thành Chánh giác. Nơi tánh vô sắc hiện tất cả sắc. Đem tất cả phương vào khắp một phương.
Hào quang chánh từ đức Phật phóng ra gọi là Phổ chiếu tam thế pháp giới môn, hào quang phụ nhiều như bụi các cõi Phật. Tất cả hào quang chiếu soi tường tận trùm mười phương thế giới. Các kính thường diễn tả Phật phóng quang từ nơi lòng bàn chân, trên bàn chân, đầu gối, cánh tay, chữ vạn ở ngực, Kinh này nói hoặc trên trán, hoặc ở giữa chặng mày… Ở đây giữa chặng mày, là chỗ viên mãn cứu cánh, tượng trưng cho trí tuệ của Phật.
Như hiện tại khoa học cũng có chút ít hào quang, cũng quan sát được nhiều cõi nước trong vũ trụ, nhưng không thể thấy được cõi nước trong mỗi lỗ chân lông, Khoa học chỉ thấy bên ngoài, chưa thấy được chưa nhận ra cõi Phật nơi thân mình.
Kinh này nói Phật phóng quang nơi giữa chặng mày, là tượng trưng trí tuệ cứu cánh của Phật giúp cho chư Bồ-tát soi thấy tất cả cõi nước, tất cả cõi Phật, tất cả hoạt động của chư Phật mười phương, đâu đâu cũng thấy cũng biết không thiếu sót. Các Bồ-tát ở mười phương thảy đều đầy đủ trí tuệ thần biến, được những tam-muội tự tại, thực hiện tất cả pháp hy hữu… Các nhà phê bình nói người Ấn Độ giàu ngôn ngữ, giàu tưởng tượng nên khi diễn tả vô lượng cảnh giới bất khả tư nghì, dùng từ ngữ phong phú, dùng nhiều thí dụ vượt ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.
Chư Bồ-tát này đủ vô biên tạng phước đức trí tuệ như vậy. Thường được chư Phật khen ngợi. Bao nhiêu ngôn từ nói công đức của các ngài cũng không hết được. Tất cả chư Bồ-tát này đều ở trong rừng Thệ đa. Sâu vào biển công đức lớn của Như Lai. Đều thấy quang minh chiếu sáng của đức Phật.
Lúc đó chư Bồ-tát được bất tư nghì chánh pháp quang minh, lòng rất hoan hỷ.
Chư Bồ-tát đến tụ họp tại rừng Thệ-đa đều đầy đủ phước đức trí tuệ, được vào trong biển công đức lớn của Phật, được thấy hào quang của chánh pháp nên lòng rất hoan hỷ. Nghĩa là khi chúng ta tu tập đầy đủ công đức, sẽ nhận được vô lượng vô biên sự kỳ diệu ngay chính thân tâm mình.
Đều ở trên thân mình, cùng lâu các và những đồ trang nghiêm với tòa sư tử đương ngồi, trong tất cả vật khắp rừng Thệ đa, hóa hiện các thứ mây đại trang nghiêm, đầy khắp tất cả thập phương pháp giới.
Khi các ngài được quang minh của Phật sanh tâm hoan hỷ, trên thân mình cho đến cây cối trong rừng Thệ-đa đều hóa hiện những đồ trang nghiêm, trong mỗi thứ trang nghiêm đều thuyết pháp, đều nói đạo lý khai ngộ chúng sanh.
Ở trong mỗi niệm phóng ra mây đại quang minh đầy khắp mười phương, đều có thể khai ngộ tất cả chúng sanh. Hiện ra mây ma-ni bảo linh đầy khắp mười phương, phát âm thanh vi diệu ca tụng khen ngợi tất cả công đức của tam thế chư Phật. Hiện ra tất cả mây âm nhạc đầy khắp mười phương. Trong âm nhạc diễn nói những nghiệp quả báo của tất cả chúng sanh.
Hiện ra mây những nguyện hạnh sắc tướng của tất cả Bồ-tát đầy khắp mười phương, diễn nói đại nguyện của chư Bồ-tát. Hiện ra mây tự tại biến hóa của tất cả Như Lai, đầy khắp mười phương, diễn nói ngôn ngữ âm thanh của tất cả chư Phật Như Lai. Hiện ra mây thân tướng hảo trang nghiêm của tất cả Bồ-tát, đầy khắp mười phương, nói chư Như Lai thứ đề xuất thế nơi tất cả quốc độ. Hiện ra mây đạo tràng của tam thế Như Lai đầy khắp mười phương, hiển bày công đức trang nghiêm của tất cả Như Lai thành Đẳng chánh giác. Hiện ra mây tất cả Long vương đầy khắp mười phương, mưa tất cả thứ hương thơm. Hiện ra mây thân của tất cả Thế Chủ đầy khắp mười phương, diễn thuyết hạnh của Phổ Hiền Bồ-tát. Hiện ra mây Phật độ thanh tịnh tất cả bảo trang nghiêm đầy khắp mười phương, hiển bày tất cả Như Lai chuyển chánh pháp luân.
Chư Bồ-tát này vì được bất tư nghì pháp quang minh, nên theo pháp phải hiện ra bất khả thuyết Phật sát vị trần số mây đại thần biến trang nghiêm như vậy.
Lúc đó, Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát thừa thần lực của đức Phật, muốn tuyên lại những sự thần biến trong rừng Thệ-đa, quán sát mười phương rồi nói kệ rằng:
Chỗ này, thiền sư Trung Hoa gọi là vô tình thuyết pháp. Thiền sư Ấn Độ thì diễn tả, mây báu, mây âm nhạc, mây hạnh nguyện sắc tướng… Tất cả pháp đều là Phật pháp, tất cả đều sống trong hào quang trong trí tuệ của Phật, lúc đó toàn thể thân mình, toàn thể sự vật đều biến thành Phật pháp, Khi chúng ta chưa hiểu đạo lý, chưa biết tu hành thì tư tưởng, ngôn ngữ, hành động đều là pháp thế gian, sự vật bên ngoài đều là ngũ dục quyến rũ. Khi biết tu, hiểu biết đạo lý nhận được trí tuệ tuyệt vời của Phật, thì từ tâm niệm, ngôn ngữ, hành động đều hiện màu Phật pháp, nhìn sự vật thấy đâu cũng là Phật pháp. Thiền sư nói dùng cọng cỏ làm thân vàng trượng sáu, hoặc nghe âm thanh đều ngộ được pháp thân.
Đây diễn tả trong rừng Thệ-đa tất cả đều hiện thành Phật pháp, đều là những câu trang nghiêm nói Phật pháp. Tất cả hình ảnh đẹp đẽ ấy nói lên ý nghĩa sâu kín vi diệu. Kết thúc đoạn trước, ngài Phổ Hiền nói kệ, Phổ Hiền là hạnh nguyện; kết thúc đoạn này, ngài Văn-thù thừa thần lực Phật nói kệ, Văn-thù là trí tuệ.
Các ngài nên xem rừng Thệ đa
Phật oai thần nên rộng vô biên
Tất cả trang nghiêm đều hiện bày
Thập phương thế giới đều đầy khắp.
Trong rừng Thệ-đa này đều trang nghiêm rộng rãi, tất cả đều đầy khắp mười phương.
Tất cả cõi nước ở mười phương
Vô biên phẩm loại đại trang nghiêm
Ở trong những bảo tòa các cảnh
Hiển hiện rõ ràng những sắc tượng.
Chẳng những Phật Bồ-tát, đại chúng mà tất cả những sự vật, những phẩm loại trang nghiêm bảo tòa, cảnh sắc đều hiện rõ ràng.
Lỗ lông của Phật tử hiện ra
Những mây trang nghiêm báu đẹp sáng
Và phát tiếng vi diệu Như Lai
Khắp cùng mười phương tất cả cõi.
Trong mỗi lỗ chân lông của chư Bồ-tát phát tiếng vi diệu khắp cùng cả mười phương. Phật tử là chỉ cho chư Bồ-tát.
Trong cây bông báu hiện diệu thân
Thân ấy sắc tướng đồng Phạm vương
Từ thiền định dậy mà bước đi
Oai nghi đến lui hằng tịch tịnh.
Trong cây hiện ra sắc tướng đồng Phạm vương, từ thiền định dậy bước đi oai nghi hằng tịch tịnh, nghĩa là trong cây hiện ra hình tượng Phật, Bồ-tát.
Trong mỗi lỗ lông của Như Lai
Thường hiện nan tư thân biến hóa
Đều như Phổ Hiền đại Bồ-tát
Những tướng đại nhân để nghiêm hảo.
Trong mỗi lỗ chân lông của Phật đều hiện ra những thần biến không thể lường. Những thần biến đó đều là tướng đại nhân nghiêm hảo của đại Bồ-tát Phổ Hiền, Bao nhiêu diệu dụng của Phật đều là những hạnh do trí sai biệt của Phổ Hiền.
Cõi không gian trên rừng Thệ đa
Những đồ trang nghiêm phát tiếng diệu
Nói khắp tam thế chư Bồ-tát
Thành tựu tất cả biển công đức.
Những đồ trang nghiêm như mây trong rừng Thệ-đa đều phát ra những tiếng vi diệu, nói khắp tam thế chư Bồ–tát thành tựu biển công đức.
Những cây báu trong rừng Thệ đa
Cũng phát vô lượng âm thanh diệu
Diễn nói tất cả các quần sanh
Những loại nghiệp hải đều sai khác.
Trong cây cũng phát ra vô lượng âm thanh nói về nghiệp hải sai khác của chúng sanh.
Bao nhiêu cảnh giới ở trong rừng
Đều hiện tam thế Phật Như Lai
Mỗi Phật đều hiện đại thần thông
Mười phương sát hải vị trần số.
Những cảnh giới trong rừng Thệ-đa đều hiện thân ba đời chư Phật, mỗi thân Phật đều hiện đại thần thông mười phương sát hải vị trần số, nghĩa là các cõi nước nhiều như số bụi nhỏ.
Bao nhiêu những quốc độ mười phương
Tất cả sát hải vị trần số
Đều nhập trong lỗ lông Như Lai
Thứ đệ trang nghiêm đều hiện thấy.
Bao nhiêu trang nghiêm đều hiện Phật
Bằng số chúng sanh khắp thế gian
Mỗi mỗi đều phóng đại quang minh
Thảy đều tùy nghi độ muôn loại.
Tất cả cõi nước mười phương nhiều như số vi trần đều vào lỗ chân lông của Như Lai, đều hiện bao nhiêu thứ trang nghiêm. Mỗi thứ trang nghiêm đều hiện thân Phật bằng số chúng sanh khắp cả thế gian, mỗi thân Phật phóng ánh sáng độ chúng sanh.
Những hoa thơm sáng và tạng báu
Tất cả những mây đẹp trang nghiêm
Đều rộng lớn lượng đồng hư không
Đầy khắp mười phương các quốc độ.
Tất cả hoa thơm, kho báu và mây đẹp trang nghiêm rộng lớn đầy cả hư không, không thể lường hết, đầy khắp cả mười phương quốc độ.
Mười phương tam thế tất cả Phật
Bao nhiêu trang nghiêm diệu đạo tràng
Ở trong cảnh giới viên lâm này
Mỗi mỗi sắc tượng đều hiện rõ.
Tất cả trang nghiêm của mười phương tam thế Phật đều hiện rõ trong cảnh vườn rừng này.
Tất cả Phổ Hiền các Phật tử
Trăm ngàn kiếp hải cõi trang nghiêm
Số vô lượng bằng số chúng sanh
Tất cả hiện đủ trong rừng này.
Trong rừng này hiện tất cả Bồ-tát, tất cả cõi trang nghiêm nhiều vô lượng bằng số chúng sanh, bao nhiêu công đức của chư Phật Bồ-tát đều thấy rõ.
Bấy giờ, chư Bồ-tát này được tam-muội quang minh của Phật chiếu đến nên liền được nhập tam-muội ấy. Mỗi Bồ-tát đều được bất khả thuyết Phật sát vị trần số môn đại bi, lợi ích an lạc tất cả chúng sanh. Ở trên thân của chư Bồ-tát, mỗi lỗ lông đều phóng ra bất khả thuyết vị trần số quang minh.
Trong mỗi quang minh đều hóa hiện bất khả thuyết Phật sát vi trần số Bồ-tát, thân tướng như các Thế chủ, hiện khắp trước tất cả chúng sanh, bao vòng khắp cùng mười phương pháp giới, dùng bidga những phương tiện để giáo hóa điều phục.
Hoặc hiện ra môn vô thường của bất khả thuyết Phật sát vi trần số chư thiên cung điện.
Hoặc hiện ra môn thọ sanh của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả chúng sanh.
Hoặc hiện ra môn tu hành của bất khả thuyết Phật sát vi trần số tất cả Bồ tát.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn mộng cảnh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn đại nguyện của Bồ-tát.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vị trần số môn chấn động thế giới.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vị trần số môn phân biệt thế giới.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn hiện sanh thế giới.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Đàn ba-la-mật.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Thi ba-la-mật của tất cả Như Lai tu những công đức, những khổ hạnh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn Sằn-đề ba-la-mật cắt đứt chi thể.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số Tỳ-lê-da ba-la-mật siêng tu.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn thiền định giải thoát của tất cả Bồ-tát tu những tam-muội.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn trí quang minh viên mãn Phật đạo.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn xả bỏ vô số thân mạng để cầu một văn một câu Phật pháp.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vị trần số môn gần gũi tất cả Phật, han hỏi tất cả pháp không có lòng nhàm mỏi.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn tùy theo thời tiết dục lạc của tất cả chúng sanh, đến chỗ của họ để phương tiện thành thục làm cho họ trụ nơi Nhất thiết trí hải quang minh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vị trần số môn hàng phục chúng ma, chế ngự các ngoại đạo, hiển bày sức phước trí của Bồ-tát.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả công xảo.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả chúng sanh sai biệt.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết tất cả pháp sai biệt.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vị trần số môn minh trí biết tâm sở thích sai biệt của tất cả chúng sanh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết căn hành phiền não tập khí của tất cả chúng sanh.
Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn minh trí biết những nghiệp của tất cả chúng sanh. Hoặc hiện ra bất khả thuyết Phật sát vi trần số môn khai ngộ tất cả chúng sanh.
Dùng bất khả thuyết Phật sát vị trần số môn phương tiện như vậy, đến chỗ ở của tất cả chúng sanh mà thành thục họ.
Như là: hoặc đến Thiên cung, hoặc đến Long cung, hoặc đến cung của Dạ-xoa, Càn-thát-bà, A-tu-la, Ca-lâu-la, Khẩn-na-la, Ma-hầu-la-già. Hoặc đến cung của Phạm vương. Hoặc đến cung của Nhân vương, Hoặc đến cung của Diêm-la vương. Hoặc đến chỗ ở của súc sanh, ngạ quỷ, địa ngục. Dùng đại bi bình đẳng, đại nguyện bình đẳng, trí tuệ bình đẳng, phương tiện bình đẳng để nhiếp thọ các chúng sanh.
Hoặc có người thấy xong mà điều phục. Hoặc có người nghe xong mà điều phục. Hoặc có người ghi nhớ mà điều phục. Hoặc có người nghe âm thanh mà điều phục. Hoặc có người nghe danh hiệu mà điều phục. Hoặc thấy viên quang mà điều phục. Hoặc thấy quang võng mà điều phục.
Tùy tâm sở thích của các chúng sanh đều đến chỗ ở của họ mà làm cho họ được lợi ích.
Chư Phật tử! Nơi rừng Thệ-đa, chư Bồ-tát vì muốn thành thục các chúng sanh nên hoặc có lúc hiện ở trong những cung điện nghiêm sức.
Hoặc có lúc thị hiện ở lâu các bảo tòa sư tử của mình, chúng hội đạo tràng cùng khắp mười phương đều làm cho được thấy. Nhưng vẫn chẳng rời khỏi rừng Thệ-đa, chỗ của đức Như Lai đây.
Chư Phật tử! Những Bồ-tát này, hoặc có lúc thị hiện vô lượng hóa thân.
Hoặc hiện thân mình riêng một không bạn. Như là hiện thân Sa-môn. Hoặc hiện thân Bà-la-môn. Hoặc hiện thân khổ hạnh. Hoặc hiện thân mập mạnh. Hoặc hiện thân y vương. Hoặc hiện thân thương chủ. Hoặc hiện thân tịnh mạng. Hoặc hiện thân kỹ nhạc, Hoặc hiện thân phụng sự chư thiên. Hoặc hiện thân công xảo kỹ thuật.
Qua đến tất cả xóm làng, thành ấp, đô thị chỗ của chúng sanh ở, Bồ-tát này tùy sở nghi dùng mọi thứ thân, mọi oai nghi, mọi âm thanh, mọi ngôn luận, những chỗ ở, mà thật hành hạnh Bồ-tát trong tất cả thế gian dường như màng lưới của Thiên đế.
Hoặc nói công xảo sự nghiệp thế gian. Hoặc nói tất cả trí tuệ chiếu thế gian như đèn sáng. Hoặc nói tất cả chúng sanh do nghiệp lực trang nghiêm. Hoặc nói cõi nước mười phương kiến lập những thừa vị. Hoặc nói đèn trí tuệ chiếu cảnh giới của tất cả pháp, giáo hóa thành thục tất cả chúng sanh. Nhưng vẫn cũng chẳng rời khỏi rừng Thệ đa của đức Như Lai đây.
Đây là ca ngợi công hạnh của chư Bồ-tát có mặt trong rừng Thệ-đa. Như lục ba-la-mật viên mãn, thần thông viên mãn, hiện thân viên mãn, giáo hóa viên mãn… Các ngài có thể thị hiện tùy nơi chốn giáo hóa chúng sanh mà không vắng mặt nơi rừng Thệ-đa. Nghĩa là tuy làm các Phật sự mọi nơi chốn không chướng ngại, mà tự thể không rời Phật, không rời Căn bản trí.
Từ trước đến đây, đức Phật nhập tam-muội, tiếp đến phóng hào quang giữa chặng mày, trong hào quang có vô số việc trang nghiêm. Ý chỉ theo kinh Hoa Nghiêm, Phật không dùng ngôn ngữ giáo hóa, chỉ dùng hành động để chúng hội nhận hiểu thêm ngộ. Các vị thiền sư cũng thế, các ngài tùy căn cơ, có khi dùng ngôn ngữ, có khi tát tai hoặc đập cho một gậy, có vị ngồi làm thinh, có vị đưa phất tử… Khi ngồi làm thịnh thì giống như Phật nhập tam-muội, khi nhướng mày thì giống như Phật phóng hào quang giữa chặng mày không nói câu nào. Đó là chỉ cho pháp của Phật đến chỗ cứu cánh viên mãn bất khả tư nghì, không dùng ngôn ngữ, không dùng tâm tư suy luận bàn xét đến được.
Phẩm Nhập Pháp Giới mở đầu giới thiệu Phật, Bồ-tát nhóm họp đầy đủ, thị hiện Phật sự, nơi các kinh khác là “như thị ngã văn”, chữ như thị là chỉ như vậy, các pháp như thế mà xuất hiện, đây dùng hình ảnh phóng quang. Kinh Hoa Nghiêm dùng hình thức diễn tả nhiều hơn là giải thích từng chữ từng câu, ý muốn chúng ta ngộ đạo qua trực giác trực ngộ, không qua ngôn ngữ. Ngôn ngữ là phương tiện yếu ớt từ vọng tâm suy lường, nhìn thấy mà trực ngộ mới là cái thật của mình. Vì vậy, kinh Hoa Nghiêm phù hợp với Thiền tông ở chỗ dùng hình ảnh mà không dùng ngôn ngữ.
dien Trong hội này Phật, Bồ-tát, Thanh văn và toàn thể hội chúng đã nhóm họp đầy đủ, phần lục chủng chứng tín đến đây thành tựu viên mãn. Từ đây về trước đầy đủ hai ý nghĩa. Một là chư Bồ-tát ca ngợi công đức của Phật gọi là công đức Phật quả. Hai là kể lại những công đức vô lượng vô biên của chư Bồ-tát. Phật đầy đủ vô lượng công đức, Bồ-tát là con Phật nên cũng đầy đủ vô lượng công hạnh. Phật và Bồ-tát là những bậc quý trọng, để chúng sanh khởi lòng tin noi theo. Từ đây về sau sẽ thấy ý nghĩa khác.
Bấy giờ ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử, từ Thiện Trụ lâu các đi ra cùng vô lượng Bồ-tát đồng hạnh và các thần Kim Cang thường theo thị vệ, các Thân Chúng thần khắp vì chúng sanh mà cúng dường chư Phật, các Túc Hành thần từ lâu phát kiên thệ nguyện thường tùy tùng, các chủ Địa thần thích nghe diệu pháp, các chủ Thủy thần thường tu đại bi, các chủ Hỏa thần trí quang chiếu sáng. Các chủ Phong thần ma-ni làm mão, các chủ Phương thần minh luyện tất cả nghi thức mười phương, các chủ Dạ thần chuyên cần diệt trừ vô minh hắc ám, các chủ Trú thần xiển minh Phật nhật nhất tâm không lười, các chủ Không thần trang nghiêm pháp giới tất cả hư không, các chủ Hải thần độ khắp chúng sanh vượt khỏi biển hữu lậu, các chủ Sơn thần thường siêng chứa nhóm thiện căn trợ đạo cao như núi xu hướng Nhất thiết trí, các chủ Thành thần thường siêng gìn giữ thành Bồ đề tâm của tất cả chúng sanh, các đại Long vương thường siêng gìn giữ pháp thành vô thượng Nhất thiết chủng trí, các dạ-xoa vương thường siêng hộ trì tất cả chúng sanh, các càn-thát-bà vương thường làm cho chúng sanh thêm hoan hỷ, các cựu bàn trà vương thường siêng trừ diệt những loài ngạ quỷ, các ca-lâu-la vương hằng thuận cứu tế tất cả chúng sanh ra khỏi biển hữu lậu, các a-tu-la vương nguyện được thành tựu những thân Như Lai cao hơn thế gian, các ma-hầu-la-già vương thấy Phật hoan hỷ cúi mình cung kính, các đại Thiên vương hằng nhàm sanh tử thường thích thấy Phật, các đại Phạm vương tôn trọng chư Phật tán thán cúng dường.
Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát cùng những chúng Bồ tát công đức trang nghiêm như vậy ra khỏi chỗ mình ở, đồng đến chỗ đức Phật, hữu nhiễu đức Thế Tôn đến vô lượng vòng. Dâng các món cúng dường lên đức Phật. Cúng dường xong, từ tạ Phật rồi đi qua phương Nam đến trong nhân gian.
Lúc đó tôn giả Xá-lợi-phất thừa thần lực của Phật, thấy Văn-thù-sư-lợi Bồ tát cùng chúng hội Bồ-tát trang nghiêm ra khỏi rừng Thệ đa qua phương Nam du hành nhân gian, liền nghĩ rằng: Tôi nay nên theo ngài Văn-thù-sư-lợi qua phương Nam.
Nghĩ xong, tôn giả Xá-lợi-phất cùng sáu ngàn Tỳ-kheo đồng rời chỗ mình ở đến chỗ đức Phật đảnh lễ chân Phật rồi bạch ý muốn, đức Phật hứa khả. Các ngài hữu nhiễu đức Phật ba vòng từ tạ đi đến chỗ ngài Văn-thù-sư-lợi.
Sáu ngàn Tỳ-kheo này vốn cùng ở chung với tôn giả Xá-lợi-phất, xuất gia chưa lâu, những là Hải Giác Tỳ-kheo, Thiện Sanh Tỳ-kheo, Phước Quang Tỳ-kheo, Đại đồng tử Tỳ-kheo, Điển Sanh Tỳ-kheo, Tịnh Hạnh Tỳ-kheo, Thiên Đức Tỳ-kheo, Quân Huệ Tỳ-kheo, Phạm Thắng Tỳ-kheo, Tịch Huệ Tỳ-kheo, sáu ngàn Tỳ-kheo như vậy.
Những Tỳ-kheo này đã từng cúng dường vô lượng chư Phật, trồng sâu căn lành, sức hiểu biết rộng lớn, tín nhãn sáng suốt, tâm lượng rộng rãi, quán Phật cảnh giới, rõ pháp bổn tánh, lợi ích chúng sanh, thường cần cầu công đức của chư Phật.
Những Tỳ-kheo này đều do ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát thuyết pháp giáo hóa mà được thành tựu.
Đây là thuật lại cuộc du hành của ngài Văn-thù- sư-lợi. Ở đoạn trước ngài Văn-thù-sư-lợi được gọi là Bồ-tát, nhưng đến đây lại gọi là Đồng tử, từ lầu các Thiện Trụ đi ra, vô lượng Bồ-tát đồng hạnh, các thần Kim Cang theo thị vệ rất đông. Đoạn trước diễn tả đức Phật nhập tam-muội, rừng Thệ-đa rộng lớn đầy đủ trang nghiêm, chư Bồ-tát câu hội tán thán Phật. Đoạn này diễn tả Bồ-tát Văn-thù từ lầu Thiện Trụ dẫn một đoàn tùy tùng nhắm phương Nam mà đi. Ngài Văn-thù-sư-lợi tượng trưng cho Căn bản trí là trí gốc, ngài Phổ Hiền tượng trưng Sai biệt trí là trí ngọn, sau khi ngộ đạo dùng trí đó để giáo hóa chúng sanh đầy đủ công hạnh. Căn bản trí và Sai biệt trí không rời pháp thân, nên hai vị Bồ-tát cùng đồng ở trong hội của đức Phật. Hai vị thượng thủ này luôn luôn có mặt khi đức Phật muốn diễn bày pháp cứu cánh.
Đến đây Căn bản trí tách ra, nói theo từ bây giờ là hạ sơn, nói theo xưa là nhập tục độ sanh, để dạy họ chứng Sai biệt trí, đầy đủ hạnh Phổ Hiền. Đoạn này có hai nhân vật quan trọng, ngài Văn-thù dẫn đầu chúng Bồ-tát, ngài Xá-lợi-phất dẫn đầu sáu ngàn Tỳ-kheo. Ngài Văn-thù là Căn bản trí, ngài Xá-lợi-phất là trí tuệ đệ nhất trong hàng Thanh văn. Hai bên cảm thông nhau, ngài Xá-lợi-phất phát tâm theo ngài Văn-thù đi qua phương Nam, khen ngợi ngài Văn-thù cho chúng Tỳ-kheo phát tâm khát ngưỡng. Văn-thù tượng trưng Căn bản trí có sẵn của chúng ta, Xá-lợi-phất cũng là trí hiện hữu mà mỗi người sẵn có. Trí hiện hữu này nhận chân được Căn bản trí, liền phát khởi Sai biệt trí, khởi lên muôn hạnh Phổ Hiền nên các Tỳ-kheo đồng lòng đi theo. Văn-thù, Phổ Hiền hay Xá-lợi-phất cùng các Tỳ-kheo đều là tâm chúng ta. Đây mượn hình ảnh ngài Văn-thù ra đi với bao nhiêu trang nghiêm, bao nhiêu tín ngưỡng của các vị bát bộ long thiên, ý nói khi đạt được Căn bản trí rồi thì phước đức viên mãn, tất cả sự cúng dường hộ trì không bao giờ thiếu.
Trong lúc đang đi nơi đường, tôn giả Xá-lợi-phất quan sát chư Tỳ-kheo rồi bảo Giác Hải rằng: Giác Hải nên quán sát thân thanh tịnh tướng tốt trang nghiêm của Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, tất cả hàng nhân thiên chẳng nghĩ bàn được.
Trước khi ngài Xá-lợi-phất giới thiệu ngài Văn-thù với chúng Tỳ-kheo, một trong những Tỳ-kheo được ngài Xá-lợi-phất chú ý là Tỳ-kheo Giác Hải. Muốn có trí thì phải có tỉnh giác, trở về trí mà không có sự tỉnh giác thì không thể trở về được.
Muốn được Căn bản trí tròn đầy sáng suốt thì phải vận dụng trí tuệ phá bỏ chấp mê lầm. Ngài Xá-lợi-phất dạy quán sát thân thanh tịnh tướng tốt của ngài Văn-thù để phát tâm khát ngưỡng, nghĩa là khi chúng ta dứt sạch mê lầm thì tâm thanh tịnh sáng suốt hiển lộ.
Giác Hải nên quán sát viên quang chói sáng của Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát làm cho vô lượng chúng sanh phát tâm hoan hỷ.
Hào quang của ngài Văn-thù ai trông thấy cũng đều sanh tâm vui vẻ.
Giác Hải nên quán sát quang võng trang nghiêm của Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát diệt trừ vô lượng khổ não cho chúng sanh.
Hào quang đó soi sáng chẳng khác nào màn lưới diệt trừ hết khổ não của chúng sanh.
Giác Hải nên quán sát chúng hội đông đầy của Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, đại chúng đó đều là bậc Bồ-tát do thiện căn thuở xưa nhiếp thọ.
Ngài Văn-thù có đầy đủ vô lượng Bồ-tát đi theo hộ vệ. Bồ-tát nghĩa là giác hữu tình hay hữu tình giác. Căn bản trí là gốc của chư Bồ-tát, gốc của giác ngộ, nên nói các Bồ-tát đông vầy, đầy đủ thiện căn.
Giác Hải nên quán sát con đường của Văn-thù- sư-lợi Bồ-tát đang đi, hai bên cách tám bộ đều bằng thẳng trang nghiêm.
Con đường trí tuệ là con đường bằng phẳng trang nghiêm.
Giác Hải nên quán sát chỗ đứng của Văn thù sư-lợi Bồ-tát khắp vòng mười phương thường có đạo tràng luôn xoay theo.
Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi đi tới đâu thì đạo tràng theo tới đó, vì trí tuệ tới đâu thì chỗ đó đều là đạo tràng.
Giác Hải nên quán sát con đường của Văn thù sư-lợi đang đi đủ cả vô lượng phước đức trang nghiêm, hai bên đường có những kho trân bảo ngầm dưới đất tự nhiên trồi lên.
Con đường của Bồ-tát Văn-thù đủ vô lượng trang nghiêm, hai bên đường có khi trân bảo dưới đất tự nhiên trồi lên. Ý chỉ rằng Căn bản trí đi tới đâu thì đầy đủ phước đức trang nghiêm, ngầm chứa tất cả công đức.
Giác Hải nên quán sát Văn-thù-sư-lợi từng cúng dường chư Phật, do thiện căn đó làm cho trong tất cả hàng cây đều hiện ra tạng bán trang nghiêm.
Căn bản trí là gốc sanh ra chư Phật. Văn-thù–sư-lợi từng cúng dường chư Phật nên trong tất cả hàng cây đều hiện ra kho báu trang nghiêm.
Giác Hải nên quán sát các Thế Gian chủ rưới mây cúng cụ, đảnh lễ cung kính dâng cúng Văn-thù- sư-lợi Bồ-tát.
Thế Gian chủ tức là các vị vua chúa ở thế gian đều cung kính cúng dường ngài.
Giác Hải nên quán sát tất cả chư Phật Như Lai mười phương, lúc sắp thuyết pháp, đều phóng ánh sáng lông trắng giữa chặng mày chiếu đến thân Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, nhập vào nơi đảnh của ngài.
Tất cả pháp của chư Phật thuyết ra đều phát khởi từ Căn bản trí, nên khi chư Phật sắp thuyết pháp đều phóng ánh sáng đến đảnh của ngài Văn-thù.
Bấy giờ tôn giả Xá-lợi-phất vì chư Tỳ-kheo mà tán thán khai thị diễn thuyết ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử có vô lượng công đức trang nghiêm như vậy.
Chư Tỳ-kheo nghe xong, tâm ý thanh tịnh, tin hiểu vững chắc, vui mừng khôn xiết, toàn thân rúng nhảy không tự kìm được. Thân thể nhu nhuyến, sáu căn vui đẹp, tất cả lo khổ đều trừ, cấu chướng đều hết. Thường được thấy chư Phật thâm cầu chánh pháp đủ căn tánh Bồ tát, được oai lực Bồ-tát, đại bi đại nguyện đều tự xuất sanh, nhập vào cảnh giới thậm thâm của các môn ba-la-mật. Thập phương chư Phật thường hiện ở trước. Rất mến thích Nhất thiết trí. Chư Tỳ-kheo bạch tôn giả Xá-lợi-phất rằng:
Mong Đại sư dẫn chúng tôi đến chỗ của ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát.
Bấy giờ các vị Tỳ-kheo nghe xong đều phát tâm tinh tiến, vui vẻ, cầu ngài Văn-thù giáo hóa cho.
Xá-lợi-phất liền cùng chư Tỳ-kheo đồng đến chỗ Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát mà bạch rằng: Thưa Ngài, chư Tỳ-kheo này xin được kính ra mắt Ngài.
Lúc đó Văn-thù-sư-lợi đồng tử có vô lượng tự tại Bồ-tát và đại chúng vây quanh, như tượng vương xoay mình lại nhìn Tỳ-kheo.
Chư Tỳ-kheo liền đảnh lễ chân Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát rồi chắp tay cung kính mà bạch rằng: Nay chúng tôi kính ra mắt, cung kính lễ bái và những thiện căn của chúng tôi có, ngưỡng mong ngài Văn-thù-sư-lợi, hòa thượng Xá-lợi-phất, Thế Tôn Thích-ca-mâu-ni Phật, đều chứng biết cho.
Như ngài Văn-thù-sư-lợi có sắc thân thế này, âm thanh thế này, tướng hảo thế này, tự tại thế này, nguyện cho tôi cũng đều có đủ như vậy.
Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát bảo các Tỳ-kheo rằng: Chư Tỳ-kheo! Nếu Thiện nam tử hay thiện nữ nhân thành tựu mười hạnh xu hướng pháp Đại thừa thời có thể mau nhập Như Lai địa, huống là Bồ-tát địa.
Thành tựu được mười hạnh này thì được quả vị Phật huống nữa là quả vị Bồ-tát.
Đây là mười hạnh:
1) Chứa nhóm tất cả thiện căn lòng không mỏi nhàm.
Thứ nhất, làm những việc lành, những việc phước đức mà lòng không mỏi nhàm, nếu sanh mỏi nhàm thì chưa được viên mãn.
2) Thấy tất cả Phật kính thờ cúng dường lòng không mỏi nhàm.
Thứ hai, kính thờ chư Phật lòng không mỏi nhàm.
3) Cầu tất cả Phật pháp lòng không mỏi nhàm.
Thứ ba, cầu học Phật pháp lòng không mỏi nhàm. Tôi xác định chỗ này cho một số người khỏi nhầm lẫn. Câu “cầu Phật pháp lòng không mỏi nhàm” sẽ có người nghĩ rằng, mình nghe giảng kinh đến già đến chết, ở đâu mở trường dạy học thì mình cũng đến đó học. Đó chỉ là suy nghĩ cạn cợt. Hiểu sâu hơn là trong tám muôn bốn ngàn pháp môn Phật dạy, chúng ta chọn được một pháp rồi lấy pháp đó tiến tu, tiến tu mãi không dừng ở một chặng nào, cho đến khi thành Phật. Đó gọi là cầu Phật pháp không biết mỏi nhàm. Không phải ở núi này trông núi kia, rồi nói vì cầu Phật pháp nên tôi không ở nhà, đi rong ruổi mà không thực hành pháp tu, cầu đa văn không phải cầu Phật pháp.
4) Thật hành tất cả hạnh ba-la-mật lòng không mỏi nhàm.
Thứ tư, thực hành lục độ, thập độ không mỏi nhàm.
5) Thành tựu tất cả Bồ-tát tam-muội lòng không mỏi nhàm.
Thứ năm, thành tựu tất cả chánh định của Bồ-tát không chán không mỏi.
6) Thứ đệ nhập tất cả tam thế lòng không mỏi nhàm.
Thứ sáu, thứ lớp vào ba đời nghĩa là tu theo cấp bậc mà tiến lên. Như từ Sơ địa, Nhị địa, Tam địa, theo thứ tự dần dần tiến lên. Theo kinh Hoa Nghiêm, Bồ-tát Sơ địa làm vua cõi trời Đao-lợi, Bồ-tát Nhị địa làm vua cõi trời Phạm thiên v.v… nghĩa là nhập tất cả thế gian lòng không mỏi nhàm.
7) Nghiêm tịnh khắp mười phương cõi Phật lòng không mỏi nhàm.
Thứ bảy, một lòng trang nghiêm cõi Phật bằng cách giáo hóa chúng sanh.
8) Giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh lòng không mỏi nhàm.
Thứ tám, điều phục chúng sanh bên trong và bên ngoài không mỏi nhàm.
9) Ở trong tất cả cõi tất cả kiếp thành tựu hạnh Bồ-tát lòng không mỏi nhàm.
Thứ chín, trong tất cả cõi, tất cả kiếp thành tựu viên mãn hạnh Bồ-tát lòng không mỏi nhàm. Con đường của Bồ-tát khác con đường Thanh văn.
10) Vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vị trần số ba-la-mật, thành tựu Như Lai thập lực. Thứ đệ như vậy, vì thành thục tất cả chúng sanh giới mà thành tựu Như Lai tất cả trí lực lòng không mỏi nhàm.
Thứ mười, vì thành tựu một chúng sanh mà tu hành tất cả Phật sát vi trần số ba-la-mật, thành tựu Như Lai thập lực. Tại sao vì thành tựu một người mà phải tu nhiều như vậy? Ý nói giả sử độ một người chúng ta cũng sẵn sàng tu tập, huống nữa là độ vô lượng chúng sanh, chúng ta cũng phải chịu tất cả những nhọc nhằn kham khổ để thành tựu tất cả trí lực của Phật.
Đây là mười điều lòng không mỏi nhàm. Nếu người đầy đủ mười điều này thì tin rằng được quả vị Bồ-tát, Phật không khó.
Chư Tỳ-kheo! Nếu Thiện nam tử hay thiện nữ nhân thành tựu lòng thâm tín phát mười hạnh lòng không mỏi nhàm này thời có thể trưởng dưỡng tất cả thiện căn, rời bỏ tất cả những loài sanh tử vượt khỏi tất cả chủng tánh thế gian, chẳng sa vào hàng Thanh văn, Bích chi Phật. Sanh vào nhà chư Phật Như Lai. Đủ tất cả Bồ-tát nguyện. Học tập tất cả Như Lai công đức. Tu hành tất cả hạnh Bồ-tát. Được Như Lai trí lực xô dẹp chúng ma và các ngoại đạo, cũng có thể trừ diệt tất cả phiền não, nhập Bồ-tát địa, gần Như Lai địa.
Đến đây phần giáo hóa của ngài Văn-thù đã xong, đến chỗ kiến nhập của chư Tỳ-kheo.
Lúc đó, chư Tỳ-kheo nghe pháp này rồi thời được tam-muội tên là Vô ngại nhãn, thấy tất cả cảnh giới Phật.
Vô ngại nhãn là mắt thấy không chướng ngại. Chư Tỳ-kheo mới nghe, chưa tu gì mà đã được vô ngại nhãn. Tại sao? Vì tâm của Thanh văn là tâm còn giới hạn trong hình thức, mười pháp này là pháp của Bồ-tát, chư Phật, nên các ngài vừa nghe liền phá được kiến chấp nhỏ hẹp của mình. Khi nghe pháp mà ngộ được, gọi là kiến đạo, nghĩa là thấy đạo không còn bị ngăn ngại nữa. Lúc đó mới thấy rõ cảnh giới của Phật không còn ngờ. Từ trước theo tinh thần Thanh văn là tự tu tự độ không còn chịu luân chuyển trong vòng sanh tử. Bây giờ nghe nói phải có tâm cầu Phật pháp không mỏi nhàm, độ chúng sanh không mỏi nhàm… Đó là cảnh giới cao siêu của Phật Bồ-tát, ngay đó liền giải được kiến chấp sợ sanh tử, nên nói được vô ngại nhãn.
Do được tam-muội này nên đều thấy chư Phật Như Lai trong vô lượng vô biên tất cả thế giới ở mười phương và những đạo tràng chúng hội. Cũng đều thấy tất cả loài chúng sanh trong thế giới mười phương. Cũng đều thấy những sai biệt của tất cả thế giới mười phương. Cũng đều thấy những vị trần của tất cả thế giới đó. Cũng đều thấy những cung điện của chúng sanh ở trong tất cả thế giới đó, dùng các báu mà làm trang nghiêm. Và cũng nghe những ngôn âm của chư Phật. Như Lai diễn thuyết các pháp, văn từ giải thích của chư Phật, nghe rồi thời đều hiểu rõ. Cũng có thể quán sát trong thế giới đó, những căn dục của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ trong những thế giới đó, trước sau mười đời của tất cả chúng sanh. Cũng có thể ghi nhớ những sự trong mười kiếp quá khứ, mười kiếp vị lai của các thế giới đó. Cũng có thể ghi nhớ chư Như Lai đó mười lần bổn sanh sự, mười lần thành Chánh giác, mười lần chuyển pháp luân, mười thứ thần thông, mười thứ thuyết pháp, mười thứ giáo giới, mười thứ biện tài.
Khi được tam-muội Vô ngại nhãn thấy khắp hết chư Như Lai trong mười phương, ghi nhớ việc của bao nhiêu đời chư Phật. Sự giáo hóa của ngài Văn-thù khiến các Tỳ-kheo liền thành tựu Bồ-đề tâm.
Chư Tỳ-kheo này lại liền thành tựu mười ngàn Bồ-đề tâm,mười ngàntam-muội, mười ngànba-la-mật, tất cả đều thanh tịnh.
Nêu lên số mười để thấy rằng các ngài từ đây đã phát tâm Bồ-đề, cho nên nói đến đâu là viên mãn đến đó.
Lại được đại trí tuệ viên mãn quang minh. Được Bồ-tát mười thần thông nhu nhuyến vi diệu. Trụ Bồ-tát tâm kiên cố bất động.
Lúc đó Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát khuyên các Tỳ-kheo trụ hạnh Phổ Hiền.
Sau khi phát Bồ-đề tâm rồi liền trụ hạnh Phổ Hiền. Các Tỳ-kheo phát Bồ-đề tâm nhân nơi ngài Văn-thù giáo hóa rồi nhận được Căn bản trí, liền đó có thể khởi Sai biệt trí làm tất cả hạnh độ tất cả chúng sanh.
Trụ hạnh Phổ Hiền rồi nhập biển đại nguyện. Nhập biển đại nguyện, rồi thành tựu biển đại nguyện. Vì thành tựu biển đại nguyện nên tâm được thanh tịnh. Vì tâm thanh tịnh nên thân được thanh tịnh. Vì thân thanh tịnh nên thân nhẹ nhàng nhậm lẹ. Vì thân thanh tịnh nhẹ nhàng nhậm lạ nên được đại thần thông không còn thối chuyển. Vì được thần thông này nên chẳng rời dưới chân của ngài Văn-thù-sư-lợi, đều hiện thân mình khắp tất cả chỗ của chư Phật mười phương, Thành tựu đầy đủ tất cả Phật pháp.
Không rời dưới chân ngài Văn-thù mà đều hiện khắp mười phương. Tại sao? Vì hiện thân khắp mười phương là hóa thân, gốc từ ngộ được Căn bản trí, nên nói không rời ngài Văn thù.
Đây là đến hội ngài Văn-thù thuyết pháp, có rất nhiều người tham dự nhưng rốt cuộc chỉ có một nhân vật là ngài Thiện Tài, điển hình cho tất cả những người phát tâm trong hội này.
Lúc ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát khuyến dạy sáu ngàn Tỳ-kheo phát Bồ-đề tâm rồi, lần lượt đi về phía nam, trải qua nhân gian đến phía đông Phước Thành, ở trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta-la, chỗ đại tháp miếu mà chư Phật thuở xưa từng ngự giáo hóa chúng sanh, nơi đây cũng là chỗ mà ngày xưa đức Thích-ca-mâu-ni Thế Tôn lúc tu Bồ-tát hạnh hay xả vô lượng sự khó xả.
Phương Nam tượng trưng cho nghĩa chánh và minh. Ngày xưa thường nói vua quay mặt về phương Nam để tượng trưng cho sự minh chánh. Đây ngài Văn-thù cũng đi về phương Nam. Phương Đông là phương mặt trời mọc chỉ cho sự ấm áp, sanh sôi nảy nở, nên nói ngài đi đến phía đông của Phước Thành, tức là chỗ sanh trưởng phước đức, Ý nói ngài đến giáo hóa nơi người ta đã gieo trồng nhiều công đức. Ngôi đại tháp miếu của chư Phật thuở xưa đã ở là chỉ cho pháp thân. Ngài Văn-thù là Căn bản trí, đến đâu ngài cũng đều y cứ vào pháp thân, không y cứ vào hóa thân, báo thân.
Do đây nên rừng này có tiếng đến vô lượng cõi Phật. Rừng này thường được sự thủ hộ cúng dường của chư thiên, long, dạ xoa, càn thát-bà, a-tu-la, ca-lâu-la, khẩn-na-la, ma-hầu-la-già, nhân cùng phi nhân.
Các Phật sự ngài Văn-thù làm đều không rời pháp thân. Chúng sanh được giáo hóa ở đây là do căn duyên đã thuần thục, phước đức gần viên mãn nên gặp được ngài. Xét kỹ chỗ này, thường người ta nói phước đức và trí tuệ đi đôi với nhau, có phước thì gần với trí, cũng như có trí thì dễ được phước. Tại sao? Có phước là có duyên lành lớn, có duyên lành lớn mới gặp thiện tri thức chỉ dạy phát sanh trí tuệ. Nói cách khác, những người công đức gần viên mãn mới dễ trực nhận được Căn bản trí để đạt đến chỗ giác ngộ.
Lúc ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát và các quyến thuộc đến rừng Trang Nghiêm Tràng Ta-la rồi, liền ở tại đó nói khế kinh Phổ Chiếu Pháp Giới cùng với trăm vạn ức na-do-tha khế kinh.
Phổ Chiếu Pháp Giới nghĩa là soi chiếu tất cả pháp giới. Pháp giới chính là tâm, Bồ-tát Văn-thù chỉ chúng ta trực nhận, trực ngộ chân tâm trùm khắp, nên ngài nói kính Phổ Chiếu Pháp Giới.
Khi nói kinh, trong đại hải có vô lượng trăm ngàn ức chư long đến nghe kinh. Nghe xong chư long đều chán thân loài rồng nên đều phát tâm cầu Phật đạo. Đều xả thân rồng sanh trong loài người hoặc cõi trời. Một muôn chư long được chẳng thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có vô lượng vô số chúng sanh ở trong Tam thừa đều được điều phục.
Trước hết là các loài rồng phát tâm cầu Phật đạo, sau đến vô số chúng sanh đều được điều phục.
Lúc đó người Phước Thành hay tin ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử ở đại tháp miếu trong rừng Trang Nghiêm Tràng Ta-la, vô lượng người ra khỏi thành đi đến rừng.
Có Ưu-bà-tắc tên là Đại Trí cùng quyến thuộc năm trăm Ưu-bà-tắc, như là:Tu-đạt-đa, Bà-tu-đạt-đa, Phước Đức Quang, Hữu Danh Xưng, Thí Danh Xưng, Nguyệt Đức, Thiện Huệ, Đại Huệ, Hiền Hộ, Hiền Thắng… đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử, hữu nhiễu ba vòng, rồi lui ra ngồi qua một phía.
Lại có năm trăm ưu-bà-di, như là: Đại Huệ, Thiện Quang, Diệu Thân, Khả Lạc Thân, Hiền Hạnh, Hiền Đức, Hiền Quang, Tràng Quang, Đức Quang, Thiện Mục, v.v… đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.
Lại có năm trăm đồng tử, như là: Thiện Tài, Thiện Hạnh, Thiện Giới, Thiện Oai Nghi, Thiện Dũng Mãnh, Thiện Tư, Thiện Huệ, Thiện Giác, Thiện Nhãn, Thiện Tý, Thiện Quang… đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử, hữu nhiễu ba vòng rồi lui ra ngồi qua một phía.
Trong năm trăm đồng tử này, ngài Thiện Tài là người đứng đầu.
Lại có năm trăm đồng nữ, như là: Thiện Hiền, Đại Trí cư sĩ nữ, Hiền Xưng, Mỹ Nhan, Kiên Huệ, Hiền Đức, Hữu Đức, Phạm Thọ, Đức Quang, Thiện Quang… đồng đến đảnh lễ chân ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử, hữu nhiễu ba vòng rồi ngồi qua một phía.
Ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử biết người Phước Thành đều đã đến đông đủ, tùy tâm sở thích của họ mà hiện thân tự tại ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng. Ngài dùng đại từ tự tại làm cho họ thanh lương. Dùng đại bi tự tại khởi tâm thuyết pháp. Dùng trí tuệ tự tại biết tâm sở thích của họ. Dùng biện tài quảng đại sắp vì họ mà thuyết pháp.
Trước hết Bồ-tát hiện thân tự tại, ánh sáng rực rỡ chói lấp đại chúng, để nêu Căn bản trí tối thượng. Thứ đến dùng đại từ làm cho họ mát mẻ, kế đó dùng đại bi khởi tâm thuyết pháp, tiếp nữa dùng trí tuệ để biết tâm của họ, rồi mới dùng biện tài vì họ nói pháp. Đó là dụng công giáo hóa hay phương tiện giáo hóa của ngài Văn-thù.
Lúc đó, ngài lại quán sát Thiện Tài đồng tử do cớ gì mà có tên như vậy. Ngài biết Đồng tử này lúc mới nhập thai, trong nhà đó tự nhiên hiện ra lầu các thất bảo.
Trong số chúng hội rất đông, nhưng ngài chú ý Thiện Tài đồng tử, quán sát nhân duyên của Đồng tử đó như thế nào.
Trên phục tạng, đất tự nứt ra mọc lên nanh thất bảo: vàng, bạc, lưu ly, pha lê, chân châu, xa cừ, mã não.
Trên các kho báu ngầm dưới đất tự nhiên trồi lên những cái chồi như cái nanh gọi là nanh thất bảo. Bảy báu này từ trước ẩn ngầm dưới đất, đợi Đồng tử ra đời mới bày ra hết, như vậy để thấy rằng tất cả các châu báu ẩn giấu chờ người có phước. Người nào có phước thì được hưởng, không có phước thì kiếm hoài không thấy.
Sau mười tháng, Thiện Tài đản sanh thân hình tay chân đoạn chánh đầy đủ. Lúc đó bảy phục tạng từ đất trồi lên ánh sáng chói rực. Mỗi tạng báu ngang dọc cao thấp đều vuông vức bảy thước tay.
Trong nhà đó lại tự nhiên có năm trăm món đồ bằng thất bảo, mọi vật đều đựng đầy trong đó. Những là: trong chậu kim cang đựng tất cả thứ hương thơm. Trong chậu hương đựng các thứ y phục. Trong bát mỹ ngọc đựng các thứ thực phẩm thượng diệu. Trong bát ma-ni đựng đầy những thứ trân bảo đẹp lạ. Bình vàng đựng bạc. Bình bạc đựng vàng. Trong bình vàng bạc đựng đầy ngọc lưu ly và ma-ni. Trong bình pha lê đựng đầy xa cừ. Trong bình xa cừ đựng đầy pha lê. Trong bình mã não đựng đầy chân châu. Trong bình chân châu đựng đầy mã não. Bình hỏa ma-ni đựng đầy thủy mani. Bình thủy ma-ni đựng đầy hỏa ma-ni. Năm trăm đồ đựng châu bảo như vậy tự nhiên xuất hiện.
Nơi đó lại mưa các châu bảo và những tài vật làm cho tất cả kho đụn trong nhà đó đều đầy ngập.
Do cớ trên đây nên cha mẹ thân thuộc và tướng sư đều kêu đứa trẻ ấy là Thiện Tài.
Đồng tử này tên Thiện Tài là do khi sanh ra có đầy đủ những của báu, đầy đủ những đồ quý giá. Tại sao ngài sanh ra thì dưới đất trồi lên nhiều của báu như vậy? Những điều này có tánh cách thần kỳ, nhưng nghiệm kỹ đều có lý do. Ở đời, người đầy đủ phúc duyên thì khi ra đời nơi nào, nơi đó biến thành cảnh giàu có sung sướng vì nhân không rời quả, quả không rời nhân. Do ngài Thiện Tài đã gieo trồng nhiều duyên lành nơi vô lượng chư Phật, nên khi sanh ra liền có nhiều kho báu. Những điều này trên nhân gian cũng thường thấy. Có người sanh ra cha mẹ giàu có, của cải đầy đủ, muốn gì có nấy, còn có người sanh ra ở nơi đói lạnh. Đó là do không phúc không duyên nên ra đời đã khổ, người có phúc có duyên thì ra đời được xinh tươi, đủ mọi công đức, mọi thứ sung sướng. Tất cả phước đức đó đã được tạo sẵn từ quá khứ, không phải mới đây.
Ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử lại biết Thiện Tài đã từng cúng dường quá khứ chư Phật, gieo sâu căn lành, tin hiểu rộng lớn, thường thích gần gũi các thiện tri thức. Thân ngữ ý đều không lỗi lầm, tu Bồ-tát đạo cầu Nhất thiết trí, thành Phật pháp khí. Tâm Đồng tử này thanh tịnh như hư không, hồi hướng Bồ-đề không chướng ngại.
Thiện Tài không chỉ cúng dường Phật quá khứ, điều quan trọng là có niềm tin rộng lớn, thích gần gũi thiện tri thức, chí cầu Bồ-tát đạo, Chính những điều này là yếu tố cần thiết của việc tham vấn cầu đạo sau đây.
Ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát quán sát Thiện Tài như vậy rồi, liền an ủi chỉ dạy tất cả Phật pháp.
Những là nói pháp tích tập của tất cả Phật, pháp tương tục của tất cả Phật, pháp thứ đệ của tất cả Phật, pháp chúng hội thanh tịnh của tất cả Phật, pháp pháp luân hóa đạo của tất cả Phật, pháp sắc thân tướng hảo của tất cả Phật, pháp pháp thân thành tựu của tất cả Phật, pháp ngôn từ biện tài của tất cả Phật, pháp quang minh chiếu diệu của tất cả Phật, pháp bình đẳng vô nhị của tất cả Phật.
Ngài Văn-thù-sư-lợi đồng tử vì Thiện Tài đồng tử và đại chúng mà nói những pháp như vậy rồi, lại ân cần khuyên dạy cho họ tăng trưởng đạo lực, cho họ hoan hỷ phát tâm Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác. Lại làm cho họ tự ghi nhớ thiện căn thuở quá khứ.
Ngài lại vì tất cả đại chúng mà tùy nghi thuyết pháp. Sau đó ngài rời rừng mà đi.
Ngài Văn-thù sau khi khuyên dạy Thiện Tài và đại chúng được tín tâm về Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác phát Bồ-đề tâm. Ngài bèn tách rời hội chúng ra đi, Căn cứ theo bản kinh này, hội thứ nhất Phật ở điện Phổ Quang Minh dùng thần lực khai thị khiến hội chúng thành tựu tín tâm, phù hợp với đoạn này là kết luận của phần Thập tín. Từ tín tâm phát Bồ-đề tâm, phát Bồ-đề tâm rồi lên bậc hiền thánh. Phần sau ngài Thiện Tài đồng tử đi tham vấn năm mươi hai vị thiện tri thức, để chỉ cho năm giai vị của Bồ-tát, mỗi giai vị có mười bậc đó là Thập trụ, Thập hạnh, Thập hồi hướng, Thập địa cùng Đảng giác Diệu giác. Vì thế ngài Văn-thù khai mở tín tâm là xong bổn phận nên ngài ra đi.
Thiện Tài đồng tử được nghe pháp nơi ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, được nghe những công đức của chư Phật như vậy, liền nhất tâm cần cầu vô thượng Bồ-đề, đi theo ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát mà nói kệ rằng:
Phát Bồ-đề tâm tức là nghe và tin hiểu công đức Phật và chư Bồ-tát rồi phát tâm cầu thành Phật. Như vậy đã được Thập tín.
Ba cõi làm thành quách
Kiêu mạn làm tường vách
Các loài làm cửa nẻo
Nước ái làm hào ao.
Tối ngu si đậy che
Lửa tham sân cháy rực
Ma vương làm quân chủ
Trẻ khờ ở trong đó.
Trẻ khờ là để chỉ cho chúng sanh. Chúng sanh lấy ba cõi làm thành quách, cứ lăn lộn mãi trong ấy. Lấy kiêu mạn làm tường vách, bị kiêu mạn ngăn che nên không thấy được mười phương chư Phật, không thấy được tất cả pháp. Các loài làm cửa nẻo, tức là đi vào cửa loài này loài kia, lăn lộn ra vào trong hai mươi lăm loài. Nước ái như ao hồ chứa đựng mãi không hết. Tối ngu si đậy che, tức là ngu si che đậy trí tuệ. Lửa tham sân cháy rực, đây nhắc lại như trong kinh Pháp Hoa diễn tả các con ông trưởng giả ở trong nhà bị cháy. Ma vương làm quân chủ, bị làm nô lệ cho ma vương. Những điều này thật là vô phúc, chúng ta làm nô lệ cho ma như những đứa trẻ khờ phải ráng chịu, không có cách thoát ra. Thiện Tài nói lên những khổ ách của chúng sanh để xin ngài Văn-thù thương xót mà cứu độ.
Tham ái làm dây trói
Dua dối làm cương yên
Nghi hoặc che đôi mắt
Thẳng vào những đường tà.
Vòng dây tham ái trói buộc, dối trá làm cương yên khiến chúng sanh rơi vào những đường tà, lẩn quẩn ở trong vòng tam giới. Nghi hoặc che đôi mắt vì nghi ngờ không thấy nên mù mịt thẳng vào đường tà.
Vì đầy tham, ganh, kiêu
Vào nơi ba đường ác
Hoặc đọa trong các loài
Khổ sanh già bệnh chết.
Chúng sanh nào không có đầy đủ ngũ dục thì tham muốn cho được có, hoặc thấy người hơn mình thì ganh tỵ, nếu mình hơn người thì sanh tâm kiêu mạn. Đó là bệnh của chúng sanh, do tham, ganh, kiêu mà vào ba đường ác, hoặc đọa trong các loài chịu khổ sanh già bệnh chết không thoát được. Nếu người nào không có lòng tham, ganh, kiêu thì chắc khỏi vào ba con đường ác.
Những đoạn trên kể ra các đau khổ của chúng sanh đang chìm đắm trong sanh tử, không ra khỏi ba cõi. Đến đây, Thiện Tài khen Bồ-tát Văn-thù-sư-lợi.
Mặt nhật trí thanh tịnh
Vầng tròn đầy đại bi
Hay cạn biển phiền não
Xin ban diệu quán sát.
Khen ngợi trí thanh tịnh của Bồ-tát như mặt nhật, bị tâm chẳng khác vầng tròn, ngài hay làm cạn hết những biển phiền não. Vậy xin ngài dạy phương pháp để con khéo quán sát.
Mặt nguyệt trí thanh tịnh
Vầng trong sạch đại từ
Ban an vui tất cả
Xin thương soi xét tôi.
Trí thanh tịnh của ngài như mặt nguyệt, lòng đại từ trong sạch như vầng tròn, ban mọi sự an vui cho tất cả. Vậy xin ngài thương xót mà soi xét đến chúng tôi.
Vua tất cả pháp giới
Pháp bảo làm tiên đạo
Du không chẳng chướng ngại
Xin thương dạy bảo tôi.
Ngài như vua trong pháp giới, đầy đủ những pháp bảo dẫn đạo, dạo đi trong Không mà không bị chướng ngại, Vậy xin ngài hãy từ bi thương xót mà dạy bảo cho tôi.
Đại thương chủ phước trí.
Dũng mãnh cầu Bồ-đề
Lợi khắp các quần sanh
Xin thương thủ hộ tôi.
Ngài như bậc đại thương chủ có đầy đủ phước và trí, dũng mãnh cầu đạo Bồ-đề lợi ích khắp tất cả quần sanh. Vậy xin ngài thương xót thủ hộ tôi.
Thân mặc giáp nhẫn nhục
Tay cầm gươm trí tuệ
Tự tại hàng quân ma
Xin thương cứu vớt tôi.
Tượng Bồ-tát Văn-thù mặc áo giáp nhẫn nhục, tay cầm gươm trí tuệ là để tượng trưng cho những ý nghĩa này.
Ở đảnh pháp Tu-di
Định nữ thường hầu hạ
Diệt hoặc a-tu-la
Đế-thích xin xem tôi.
Ngài như vua trời Đế thích ở trên đỉnh núi Tu-di, được tất cả những định nữ hầu hạ. Định nữ là gì? Tức là thiền định. Ngài diệt hết tất cả mê lầm như diệt a-tu-la. Vậy xin ngài thương xót soi đường cho chúng tôi.
Nhà ba cõi phàm ngu
Hoặc nghiệp khổ luân chuyển
Ngài đã điều phục cả
Như đèn sáng soi đường.
Nhà ba cõi của phàm phu ngu si có đủ hoặc, nghiệp, khổ lưu chuyển mãi mãi. Do mê lầm tạo nghiệp, do nghiệp thọ khổ, thọ khổ nhiều càng thêm mê lầm rồi tạo nghiệp, tạo nghiệp thọ khổ, cứ thế lưu chuyển không dứt. Trong vòng luân hồi ngài đã điều phục được tất cả nên ngài là ngọn đèn soi đường cho chúng sanh.
Bỏ rời những ác thú
Thanh tịnh những đường lành
Bậc vượt hẳn thế gian
Dạy tôi môn giải thoát.
Ngài đã rời các nẻo ác, đã thanh tịnh những đường lành, là bậc vượt hẳn cả thế gian. Vậy xin ngài dạy cho tôi môn giải thoát.
Thế gian chấp điên đảo
Thường thích tưởng ngã tịnh
Trí nhãn đều rời được
Dạy tôi môn giải thoát.
Người thế gian thường chấp điên đảo, thường chấp cho ngã là thanh tịnh trong sạch. Ngài có trí nhãn xa rời tất cả chấp tưởng điên đảo về ngã tịnh. Vậy xin ngài dạy tôi môn giải thoát.
Khéo biết đường tà chánh
Biết rõ tâm không khiếp
Đấng quyết rành tất cả
Dạy tôi đường Bồ-đề.
Ngài biết rõ ràng đâu là tà, đâu là chánh, tâm ngài không còn khiếp sợ. Ngài là đấng giải quyết rành rẽ, xin ngài dạy cho tôi con đường Bồ-đề.
Trụ bậc Phật chánh kiến
Lớn cây Phật công đức
Rưới bông Phật diệu pháp
Dạy tôi đường Bồ-đề.
Ngài đã trụ vào chánh kiến của Phật, là người làm lớn cây công đức của Phật, là người ban bố hoa diệu pháp của Phật. Vậy mong ngài dạy cho tôi con đường Bồ-đề.
Khứ, lai, hiện tại Phật
Xứ xứ đều cùng khắp
Như mặt nhật mọc lên
Vì tôi dạy đạo đó.
Chư Phật đời quá khứ hiện tại vị lai, nơi nơi đều thị hiện, chẳng khác mặt trời mọc lên soi sáng thế gian. Vậy mong ngài vì tôi mà dạy đạo đó.
Khéo biết tất cả nghiệp
Thấu rõ hạnh các thừa
Người trí tuệ quyết định
Dạy tôi pháp Đại thừa.
Ngài là người khéo biết tất cả nghiệp, đã thấu biết hạnh của các thừa, là người trí tuệ quyết định. Vậy xin ngài dạy tôi phương pháp Đại thừa.
Bánh nguyện, gọng đại bi,
Tín trục, vành kiên nhẫn
Báu công đức trang nghiêm
Cho tôi ngồi xe này.
Xin ngài cho tôi ngồi chiếc xe được thiết kế như sau: Bánh bằng nguyện, gọng bằng đại bi, trục bằng tín, vành bằng kiên nhẫn, thùng xe trang nghiêm bằng các báu công đức.
Rương tổng trì quảng đại
Lọng từ mẫn trang nghiêm
Linh biện tài reo vang
Khiến tôi ngồi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe có rương tổng trì, dùng lọng từ mẫn trang nghiêm, chiếc xe đó có linh biện tài reo vang.
Phạm hạnh làm nệm êm
Tam-muội làm thể nữ
Trống pháp rền tiếng mầu
Cho tôi ngồi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe có phạm hạnh làm nệm, tam-muội là thể nữ theo hầu, khi đi có trống pháp vang rền.
Qua các đoạn kệ trên, có hai lần dùng thể nữ thí dụ cho định tam-muội. Tại sao? Ở thế gian, những hàng vua chúa, trưởng giả thường có thể nữ theo hầu hạ cho được an ổn vui vẻ. Nói đến thể nữ là nói đến sự an ổn vui vẻ do những người hầu phụng sự. Cũng vậy, thiền định là chỗ an ổn vui vẻ của người tu, nên thường lấy đó làm thí dụ.
Tứ nhiếp tạng vô tận
Báu công đức trang nghiêm
Tàm quý làm yên cương
Ban cho tôi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe có tứ nhiếp pháp làm tạng vô tận, những công đức báu làm vật trang nghiêm, hổ thẹn làm yên cương.
Thường rong xe bố thí
Hằng xoa hương tịnh giới
Bò nhẫn nhục trang nghiêm
Cho tôi ngồi xe này.
Xin được rong chiếc xe bố thí, được thoa hương tịnh giới, được kéo bởi con bò nhẫn nhục. Nhà Phật thường thí dụ tịnh giới là hương, vì giới là thanh tịnh, thơm tho nên được mọi người khen ngợi. Ngược lại, phạm giới thì gọi là ô uế, hôi hám.
Thùng thiền định tam-muội
Ách trí tuệ phương tiện
Điều phục chẳng thối chuyển
Cho tôi ngồi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe thùng bằng thiền định, ách bằng trí tuệ phương tiện. Điều phục không thối chuyển tức là tiến tới không lùi.
Xe đại nguyện thanh tịnh
Sức tổng trì kiên cố
Trí tuệ được thành tựu
Cho tôi ngồi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe đại nguyện có sức tổng trì kiên cố, trí tuệ tròn đầy.
Phổ hạnh làm đi khắp
Bi tâm thong thả đi
Đến đâu đều không khiếp
Cho tôi ngồi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe đầy đủ tất cả hạnh, dùng bi tâm đi thong thả, đến đâu cũng không khiếp sợ.
Kiên cố như kim cang
Thiện xảo như huyễn hóa
Tất cả không chướng ngại.
Cho tôi ngồi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe kiên cố như kim cương, khéo léo như huyễn hóa, tất cả không có gì chướng ngại.
Quảng đại rất thanh tịnh
Khắp ban chúng sanh vui
Đồng hư không pháp giới
Cho tôi ngồi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe quảng đại thanh tịnh ban vui khắp cho chúng sanh, đồng với hư không đầy pháp giới. Cho tôi ngồi xe này, nghĩa là cho tôi tu theo thừa đó, thừa hay thặng là chiếc xe hoặc ngồi trên xe. Đại thặng là chiếc xe lớn, tiểu thặng là chiếc xe nhỏ. Ở đây Thiện Tài xin ngồi xe đại thặng.
Sạch những vòng nghiệp hoặc
Dứt những khổ lưu chuyển
Dẹp ma và ngoại đạo
Cho tôi ngồi xe này.
Xin được ngồi chiếc xe dứt sạch vòng nghiệp hoặc, dứt những khổ lưu chuyển, dẹp hết ma và ngoại đạo.
Trí tuệ khắp mười phương
Trang nghiêm khắp pháp giới
Thỏa nguyện của chúng sanh
Cho tôi ngồi xe này.
Thanh tịnh như hư không
Ái, kiến đều trừ diệt
Lợi ích tất cả chúng
Cho tôi ngồi xe này.
Nguyện lực đi mau chóng
Định tâm an ổn trụ
Chở khắp các hàm thức
Cho tôi ngồi xe này.
Như đại địa chẳng động
Như nước lợi ích cả
Chở chúng sanh như vậy
Cho tôi ngồi xe này.
Vầng từ nhiếp viên mãn
Sáng tổng trì thanh tịnh
Mặt nhật tuệ như vậy
Xin dạy cho tôi thấy.
Đây tán thán nhắc lại ngài Văn-thù như mặt nhật soi sáng khắp hết, ngài đầy đủ các tổng trì, đầy đủ các trí nhiếp. Xin ngài dạy cho tôi các pháp đó.
Đã vào ngôi Pháp vương
Đã đội mão Trí vương
Đã vấn lụa diệu pháp
Xin thương chiếu cố tôi.
Bài kệ tụng này có hai phần quan trọng. Phần trước là tả cảnh khổ của chúng sanh còn chìm trong tam giới, cầu xin ngài thương xót. Phần thứ hai là nói lên những pháp rộng lớn của Đại thừa, mong ngài chỉ dạy cho mình được an ổn tu theo pháp Đại thừa ấy.
Lúc đó ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát như tượng vương, xoay nhìn Thiện Tài đồng tử mà bảo rằng:
Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử, ngươi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, lại muốn thân cận các bậc thiện tri thức để hỏi Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo.
Này Thiện nam tử! Thân cận cúng dường các bậc thiện tri thức là nhân duyên trước nhất để được đầy đủ Nhất thiết trí. Vì thế nên công việc này ngươi chớ có mỏi nhàm.
Muốn cầu Phật đạo thì thân cận cúng dường thiện tri thức là nhân duyên đầu tiên không thể thiếu, nhờ nhân duyên đó mới đầy đủ Nhất thiết trí. Khi cầu học với thiện tri thức lòng chớ sanh mỏi nhàm.
Dan Trong đây có hai điểm quan trọng: Điểm thứ nhất là phát tâm Bồ-đề, điểm thứ hai là cầu thiện tri thức. Chúng ta thành Bồ-tát thành Phật là do phát tâm. Tại sao phát tâm là quan trọng? Vì nếu chúng ta theo học với một bậc thầy nào, muốn thành tài, trước hết phải có lòng hâm mộ vị thầy đó. Bởi mình hâm mộ nên cố gắng, nỗ lực học cho giỏi. Lòng hâm mộ là yếu tố đầu tiên. Phật quả là chỗ cao siêu xa vời, là chỗ vô tận mà thiếu sự phát tâm Bồ-đề mong cầu thành Phật thì khó thành tựu. Nếu khi tu, vui thì tu, buồn thì nghỉ thì ngàn đời cũng không thành Phật. Điểm thứ hai là cầu thiện tri thức chỉ dạy chúng ta đi đúng đường.
Đây là hai vấn đề then chốt. Vì thế đi đến đâu ngài Thiện Tài cũng hỏi các vị thiện tri thức thế nào là hạnh của Bồ-tát, thế nào là đạo của Bồ-tát. Hạnh Bồ-tát là những công đức lành để lợi ích chúng sanh. Đạo Bồ-tát là con đường đi đến Phật quả. Phải luôn luôn thao thức ôm ấp vấn đề đó thì mới thành tựu. Kinh Hoa Nghiêm luôn tán thán Bồ-đề tâm, Bồ-đề tâm là gốc để thành Phật, có gốc lành hạt giống tốt mà không nhờ người vun phân tưới nước thì gốc lành hạt giống đó có thể bị hư. Chính thiện hữu tri thức là người nuôi dưỡng, là người săn sóc cho hạt giống của mình lên thành cây, trổ bông, ra hoa có quả. Vì thế đây tán thán sự phát tâm Bồ-đề và nhấn mạnh bậc thiện tri thức làm công đức đầu tiên trong sự cầu Nhất thiết trí.
Sau khi Thiện Tài gặp ngài Văn-thù chỉ dạy cho được phát tâm Bồ-đề rồi, trải qua năm mươi hai vị thiện tri thức, cuối cùng ngài thành Phật. Phẩm này để kết luận công hạnh trước, ngay trong hiện đời ngài thể nhập được Căn bản trí, tất cả những gì ngài Văn-thù có ngài đều có, chứng minh ngài thành Phật trong hiện đời. Theo kinh Hoa Nghiêm, cốt tủy để thành Phật là phát tâm dũng mãnh và đầy đủ thiện tri thức giáo hóa thì hiện đời thành Phật, cụ thể bằng hình ảnh ngài Thiện Tài đi cầu đạo không mỏi nhàm.
Thiện Tài đồng tử bạch rằng:
Cúi xin đức Thánh vì tôi mà dạy Bồ-tát phải học Bồ-tát hạnh thế nào? Phải tu Bồ-tát hạnh thế nào? Phải đến Bồ-tát hạnh thế nào? Phải thật hành Bồ-tát hạnh thế nào? Phải tịnh Bồ-tát hạnh thế nào? Phải nhập Bồ tát hạnh thế nào? Phải thành tựu Bồ-tát hạnh thế nào? Phải tùy thuận Bồ tát hạnh thế nào? Phải ghi nhớ Bồ-tát hạnh thế nào? Phải thêm rộng Bồ-tát hạnh thế nào? Phải làm thế nào cho Phổ Hiền hạnh mau được viên mãn.
Bồ-tát hạnh là công hạnh của người tu thẳng đến Phật quả, khi được tín thành tựu rồi thực hành, tùy thuận, ghi nhớ, thêm rộng lớn… liền được viên mãn Phổ Hiền hạnh. Viên mãn Phổ Hiền hạnh là Sai biệt trí, là thành Phật.
Lúc đó ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát vì Thiện Tài đồng tử mà nói kệ rằng:
Lành thay tạng công đức
Có thể đến gặp ta
Phát khởi tâm đại bi
Siêng cầu Vô thượng giác.
Bồ-tát Văn-thù khen Thiện Tài đã có duyên lành gieo trồng nhiều công đức, nên được gặp ngài và đã khéo khởi tâm đại bi để cầu quả vô thượng.
Đã phát nguyện rộng lớn
Diệt trừ khổ chúng sanh
Vì khắp các chúng sanh
Tu hành Bồ-tát hạnh.
Khen ngợi Thiện Tài phát tâm rộng lớn diệt trừ các khổ cho chúng sanh, chính là tâm Bồ-tát, là tu Bồ-tát hạnh.
Nếu có các Bồ-tát
Chẳng nhàm khổ sanh tử
Thời đủ đạo Phổ Hiền
Tất cả không hoại được.
Bồ-tát không nhàm chán khổ sanh tử mới thành tựu đạo Phổ Hiền không gì phá hoại được. Có người hiểu lầm rằng mình tu cốt phải biết sanh tử khổ để lo giải thoát, tại sao đây nói không nhàm chán khổ sanh tử. Người thế gian mặc tình sanh tử như vậy là Bồ-tát chăng? Chỗ này phân biệt kỹ. Thấy cõi đời đau khổ là ý nói chung cho tất cả Bồ-tát Thanh văn đều thấy như vậy. Thanh văn thấy cuộc đời là đau khổ, nên các ngài cấp tốc tìm phương tiện giải thoát cho riêng mình, còn Bồ-tát thấy cõi đời là đau khổ, các ngài phát tâm Bồ-đề tu để độ chúng sanh hết khổ, Bồ-tát không nhàm chán rồi bỏ chạy tránh khổ, mà nhìn thấy khổ như huyễn, tìm cách cứu chúng sanh ra khỏi khổ.
Như có người ở trong hoàn cảnh gia đình buồn khổ, nhiều thứ xấu xa nhơ bẩn rồi đâm ra sợ chán, muốn thoát ra khỏi gia đình. Ra khỏi đó là xong phần của mình, còn anh em ở lại thì sao? Cũng có người thấy cái khổ đó, cũng sợ cũng chán nhưng thương anh em nên cam chịu khổ cực, vừa tìm cách thoát ra vừa tìm phương tiện dìu dắt anh em cùng thoát ra. Không nhàm chán sanh tử, trở lại độ chúng sanh, nhưng lúc nào cũng ý thức sanh tử là đau khổ, không phải không nhàm mỏi sanh tử rồi thích sanh tử.
Phước quang, phước oai lực
Phước xứ, phước tịnh hải
Ngươi vì khắp chúng sanh
Nguyện tu Phổ Hiền hạnh.
Nên vì chúng sanh nguyện được phước quang, phước oai lực, phước xứ, phước tịnh hải, nguyện tu hạnh Phổ Hiền.
Ngươi thấy vô biên tế
Mười phương tất cả Phật
Khắp nghe Phật thuyết pháp
Thọ trì chẳng quên mất.
Khen ngợi Thiện Tài thấy mười phương chư Phật không có ngằn mé, là người có trí ghi nhớ những lời Phật dạy.
Ngươi ở mười phương cõi
Thấy khắp vô lượng Phật
Thành tựu những nguyện hải
Đầy đủ Bồ-tát hạnh.
Nếu nhập phương tiện hải
An trụ Phật Bồ-đề
Hay theo Đạo sư học
Sẽ thành Nhất thiết trí.
Khuyến khích Thiện Tài muốn thành tựu phương tiện hải, tức là phương tiện rộng lớn như biển, nên an trụ Bồ-đề của Phật, nên theo học với các vị đạo sư, như vậy mới có thể thành Nhất thiết trí.
Khắp tất cả quốc độ
Số kiếp như vi trần
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành tựu Bồ-đề đạo.
Người tu hạnh Phổ Hiền, thành tựu đạo giác ngộ thấy tất cả các quốc độ, số kiếp nhiều như vị trần. Do thấy như vậy nên độ chúng sanh cũng vô tận.
Ở vô lượng cõi nước
Trong vô biên kiếp hải
Ngươi tu hạnh Phổ Hiền
Thành mãn những đại nguyện.
Người tu hạnh Phổ Hiền trong vô lượng cõi, trong vô biên kiếp, lúc nào cũng khởi đại nguyện, thành tựu đại nguyện.
Vô lượng chúng sanh đây
Nghe ngươi nguyện đều mừng
Đều phát tâm Bồ-đề
Nguyện học hạnh Phổ Hiền.
Khen ngợi Thiện Tài phát tâm rộng lớn như vậy, những chúng sanh chung quanh sẽ tùy thuận mà phát tâm theo. Đó là điều rất quý trong việc tự lợi lợi tha.
Nói kệ xong, ngài Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát bảo Thiện Tài đồng tử rằng:
Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử, ngươi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, cầu hạnh Bồ-tát.
Này Thiện nam tử! Nếu có chúng sanh phát tâm vô thượng Bồ-đề, đây là việc rất khó. Đã có thể phát Bồ-đề tâm rồi lại cầu Bồ-tát hạnh, việc này càng khó gấp bội.
Người phát tâm vô thượng Bồ-đề là việc rất khó. Phát tâm rồi cầu Bồ-tát hạnh lại khó hơn. Cũng như người phát tâm vô chùa đã là khó, chịu đựng theo nếp nhà chùa lại càng không dễ.
Này Thiện nam tử! Nếu muốn thành tựu Nhất thiết chủng trí thời phải quyết định cầu chân thiện tri thức.
Này Thiện nam tử! Cầu thiện tri thức chớ có mỏi lười. Thấy thiện tri thức chớ có nhàm đủ. Thiện tri thức có dạy bảo điều chỉ phải đều tùy thuận. Nơi thiện xảo phương tiện của thiện tri thức chớ thấy lỗi lầm.
Khi cầu thiện tri thức không nên sanh tâm mỏi lười, phải luôn tùy thuận, đôi khi thiện tri thức có những phương tiện khéo léo, đối với những việc đó chúng ta không nên lầm hiểu, nếu lầm hiểu sẽ bị thối chuyển. Phải khéo nhận ra phương tiện của thiện tri thức.
Phương Nam này có một nước tên là Thắng Lạc. Trong nước Thắng Lạc có tòa núi tên là Diệu Phong. Trên núi đó có một Tỳ-kheo tên là Đức Vân. Ngươi nên đến hỏi Tỳ-kheo Đức Vân: Bồ-tát phải học Bồ-tát hạnh thế nào? Phải tu Bồ-tát hạnh thế nào? Nhẫn đến phải như thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền? Tỳ-kheo Đức Vân sẽ chỉ bảo cho ngươi.
Ngài Văn-thù giới thiệu vị thiện tri thức thứ nhất là Tỳ-kheo Đức Vân. Thiện Tài bắt đầu đi du phương tham học, bắt đầu thực hành hạnh Bồ-tát, đi thẳng vào công hạnh của Bồ-tát.
Thiện Tài đồng tử nghe xong hớn hở vui mừng, đảnh lễ Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, rơi lệ từ tạ mà đi qua hướng Nam, đến nước Thắng Lạc, lên núi Diệu Phong. Ở trên núi đó xem ngó tìm kiếm khắp bốn phía, lòng khao khát muốn được gặp Tỳ-kheo Đức Vân.
Thiện Tài từ giã ngài Văn-thù-sư-lợi đi đến núi Diệu Phong ở nước Thắng Lạc. Khi ở trên núi tìm xem bốn phía mong gặp được Tỳ-kheo Đức Vân.
Bảy ngày sau mới được thấy Tỳ-kheo Đức Vân ở trên ngọn núi khác đi kinh hành chậm rãi.
Tại sao Thiện Tài lên núi Diệu Phong kiếm Tỳ-kheo Đức Vân không có, đến bảy ngày sau mới thấy Tỳ-kheo Đức Vân ở ngọn núi khác? Diệu Phong nghĩa là ngọn núi mầu nhiệm nhất, tượng trưng cho thiền định cao siêu vững chắc. Cảnh giới thiền định sâu thì không thể thấy. Nhà thiền nói Diệu Phong là chỗ không thể nghĩ tưởng, không dùng ngôn ngữ nói bày. Nếu có bàn luận thì ở ngọn núi thứ hai, nên Thiện Tài gặp Tỳ-kheo Đức Vân ở ngọn Biệt Phong.
Tên nước Thắng Lạc nghĩa là không có niềm vui nào hơn được quả vị này là Sơ phát tâm trụ. Đây dùng hình ảnh diễn tả phương pháp tu. Vị thiện tri thức đầu tiên này dạy Thiện Tài bước vào quả vị Sơ trụ Bồ-tát trong Thập trụ, cho đến kế tiếp Thập hạnh, Thập hướng, Thập địa, Đẳng giác, Diệu giác mỗi mỗi đều tu về mười pháp gọi là thập ba-la-mật. Trong thập ba-la-mật, mỗi ba-la-mật có một hạnh khế hợp: Bố thí ba-la-mật, trì giới ba-la-mật, nhẫn nhục ba-la-mật, tinh tấn ba-la-mật, thiền định ba-la-mật, Bát-nhã ba-la-mật, phương tiện ba-la-mật, nguyện ba-la-mật, lực ba-la-mật, trí ba-la-mật. Trong mười hạnh của Sơ phát tâm trụ thì lấy bố thí làm chánh, còn chín hạnh kia làm phụ.
Ngài Đức Vân có phước đức vô lượng như mây, nên gọi là Đức Vân. Bậc Sơ phát tâm trụ ban đầu của Thập trụ nặng về giải thoát nên ngài hiện thân là một vị Tỳ-kheo.
Thấy xong, Thiện Tài đồng tử liền đến đánh lễ chân Tỳ-kheo Đức Vân, hữu nhiễu ba vòng cung kính đứng trước Đức Vân mà bạch rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát phải học Bồ-tát hạnh thế nào? Phải tu Bồ-tát hạnh thế nào? Nhẫn đến phải thế nào để được mau viên mãn hạnh Phổ Hiền?
Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, mong đức Thánh thương xót dạy cho tôi thế nào Bồ-tát được thành Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Đức Vân Tỳ-kheo bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Lành thay! Lành thay! Này Thiện nam tử Ngươi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, lại có thể hỏi hạnh của Bồ-tát. Việc như vậy là sự khó trong những sự khó. Những là cầu Bồ-tát hạnh, cầu Bồ-tát cảnh giới, cầu đạo xuất ly của Bồ-tát, cầu đạo thanh tịnh của Bồ-tát, cầu tâm thanh tịnh quảng đại của Bồ-tát, cầu Bồ-tát thành tựu thần thông, cầu Bồ-tát thị hiện môn giải thoát, cầu Bồ-tát thị hiện việc làm tại thế gian, cầu Bồ-tát tùy thuận tâm của chúng sanh, cầu môn sanh tử Niết-bàn của Bồ-tát, cầu Bồ-tát quán sát hữu vi vô vi tâm không chấp trước.
Ngài Đức Vân khen ngợi câu hỏi của Thiện Tài, đã phát tâm Bồ-đề mà hỏi hạnh của Bồ-tát là khó trong các việc khó. Phát tâm Bồ-đề là yếu tố căn bản thành Phật là cái khó thứ nhất, lại nỗ lực tìm học các hạnh của Bồ-tát là cái khó thứ hai. Những việc này đáng khen ngợi đáng khuyến khích. Đây là giai đoạn thứ nhất.
Này Thiện nam tử! Ta được sức thắng giải tự tại quyết định, tín nhãn thanh tịnh, trí quang chói sáng, thấy khắp các cảnh giới khỏi tất cả chướng ngại, quán sát khéo léo, phổ nhãn sáng suốt, đủ hạnh thanh tịnh.
Giai đoạn thứ hai, nói về sự tu chứng của mình, Ngài được thắng giải tự tại quyết định, được tín nhãn thanh tịnh, tức là con mắt tin thanh tịnh, Tin nơi tâm chứ con mắt tin được không? Sở dĩ nói như vậy vì có câu phổ nhãn sáng suốt đủ hạnh thanh tịnh. Bởi ngài thấy khắp, nên tin do con mắt là tin chân thật còn tin do sự suy nghĩ tuy có tin nhưng chưa chắc bằng mắt thấy. Như khi nghe người ta đồn ở chỗ nọ chỗ kia có vật gì lạ xuất hiện, nghe nói đủ bằng cớ thì suy nghĩ rồi tin, niềm tin đó chưa vững, phải đi đến thấy tận mắt mới thật là tin không thay đổi.
Như vậy đoạn trước nói về Thập tín là do nghe Phật Bồ-tát nói mà khởi niềm tin. Đó là từ phàm phu bước vào, chưa phải niềm tin của bậc hiền thánh, đến đây là niềm tin của bậc hiền thánh từ Sơ trụ trở lên. Các ngài do thấy được, thể nhập được chân tâm, thấy khắp các cảnh giới, quán sát khéo léo, được phổ nhãn sáng suốt.
Qua đoạn này chúng ta hiểu niềm tin của mỗi bậc khác nhau.
Qua đến tất cả cõi nước mười phương cung kính cúng dường tất cả chư Phật. Thường nhớ tất cả chư Phật Như Lai. Tổng trì tất cả chánh pháp của chư Phật. Thường thấy tất cả chư Phật mười phương. Những là thấy phương Đông một đức Phật, hai đức Phật, mười đức Phật, trăm đức Phật, ngàn đức Phật, ức đức Phật, trăm ức đức Phật, ngàn ức đức Phật, trăm ngàn ức đức Phật, na-do-tha ức đức Phật, trăm na-do-tha ức đức Phật, ngàn na-do-tha ức đức Phật, trăm ngàn na-do-tha ức đức Phật, nhẫn đến thấy vô số, vô lượng, vô biên, vô đẳng, bất khả sổ, bất khả xưng, bất khả tư, bất khả lượng, bất khả thuyết, bất khả thuyết bất khả thuyết đức Phật. Nhẫn đến thấy chư Phật bằng số vi trần trong Diêm-phù-đề, bằng số vi trần trong bốn châu thiên hạ, bằng số vi trần trong tiểu thiên thế giới, bằng số vi trần trong nhị thiên thế giới bằng số vi trần trong đại thiên thế giới, bằng số Phật sát vị trần nhẫn đến thấy chư Phật bằng số bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần.
Như phương Đông, chín phương kia cũng đều thấy như vậy. Chư Phật trong mỗi phương, những sắc tướng, những hình mạo, những thần thông, những du hý, những chúng hội trang nghiêm đạo tràng, những quang minh chiếu sáng vô biên, những quốc độ, những thọ mạng. Tùy những tâm sở nghi của chúng sanh mà chư Phật thị hiện những môn thành Đẳng chánh giác, làm sư tử hống trong đại chúng.
Này Thiện nam tử! Ta chỉ được pháp môn “Ức niệm Nhất thiết chư Phật cảnh giới trí tuệ quang minh phổ kiến” này thôi.
Ngài thấy khắp chẳng những một phương mà đến mười phương, những sắc tướng, hình mạo, thần thông du hý, chúng hội trang nghiêm… cho đến Phật thị hiện những môn thành Đẳng chánh giác, làm sư tử hống trong đại chúng, tất cả việc của chư Phật đều thấy rõ, Chỗ tu của ngài đã đứng vào bậc hiền nên được cái thấy tường tận, được pháp môn Trí tuệ quang minh thấy khắp cảnh giới của tất cả chư Phật. Như pháp tu của chúng ta, từ lúc phàm phu nghe đạo lý suy nghĩ rồi khởi niềm tin nhân quả tội phước… cho đến hàng Thanh văn. Giai đoạn này áp dụng Bát chánh đạo, thứ nhất Chánh kiến là thấy bằng mắt, bằng sự nhận hiểu chân chánh mới đến tư duy chân chánh… Sự nhận hiểu cũng là niềm tin ban đầu. Bước vào giai vị Bồ-tát có cái thấy phổ kiến, từ thấy khởi niềm tin. Sự tu tập của chư hiền thánh từ thấp đến cao đều phải có sự nhận hiểu chín chắn rồi khởi niềm tin chắc chắn để tiến tới.
Đâu biết hết được vô biên trí tuệ thanh tịnh hạnh môn của đại Bồ-tát. Những là: Trí quang phổ chiếu niệm Phật môn, vì thường thấy tất cả chư Phật quốc độ những cung điện đều trang nghiêm thanh tịnh. Môn làm cho tất cả chúng sanh niệm Phật, vì tùy sở nghi của tâm chúng sanh đều làm cho họ được thấy Phật, tâm họ được thanh tịnh. Môn làm cho an trụ nơi lực niệm Phật, vì làm cho họ nhập vào Thập lực của Như Lai. Môn làm cho an trụ nơi pháp niệm Phật, vì thấy vô lượng Phật được nghe pháp. Môn niệm Phật chói sáng các phương, vì đều thấy trong tất cả thế giới chư Phật bình đẳng không sai biệt. Môn niệm Phật vào chỗ bất khả kiến, vì đều thấy trong tất cả cảnh vi tế những sự thần thông tự tại của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong các kiếp, vì trong tất cả kiếp thường thấy những việc làm không tạm bỏ của chư Phật. Môn niệm Phật an trụ trong tất cả thời gian, vì trong tất cả thời gian thường thấy đức Như Lai gần gũi đồng ở chẳng rời bỏ. Môn niệm Phật an trụ tất cả cõi, vì tất cả quốc độ đều thấy thân Phật vượt hơn tất cả không gì sánh bằng. Môn niệm Phật an trụ tất cả đời, vì tùy tâm sở thích thấy khắp tam thế chư Phật. Môn niệm Phật an trụ tất cả cảnh, vì ở khắp trong tất cả cảnh giới thấy chư Như Lai thứ đệ xuất hiện. Môn niệm Phật an trụ tịch diệt, vì trong một niệm thấy tất cả cõi, tất cả chư Phật thị hiện Niết-bàn. Môn niệm Phật an trụ viễn ly, vì trong một niệm thấy tất cả Phật từ nơi chỗ ở mà ra đi. Môn niệm Phật an trụ quảng đại, vì tâm thường quán sát mỗi thân Phật đầy khắp tất cả pháp giới. Môn niệm Phật an trụ vi tế, vì trong một chân lông có bất khả thuyết Như Lai xuất hiện, đều đến chỗ Phật mà kính thờ. Môn niệm Phật an trụ trang nghiêm, vì trong một niệm thấy tất cả cõi đều có chư Phật thành Đẳng chánh giác hiện thần biến. Môn niệm Phật an trụ năng sự, vì thấy tất cả Phật xuất hiện thế gian, phóng trí tuệ quang chuyển diệu pháp luân. Môn niệm Phật trụ tâm tự tại, vì biết tùy theo sở thích của tự tâm, tất cả chư Phật hiện hình tượng. Môn niệm Phật an trụ nơi tự nghiệp, vì biết tùy nghiệp tích tập của chúng sanh mà hiện hình tượng làm cho họ được giác ngộ. Môn niệm Phật an trụ thần biến, vì thấy liên hoa quảng đại của Phật ngự nở xòe khắp pháp giới. Môn niệm Phật an trụ hư không vì quán sát những thân Như Lai trang nghiêm pháp giới hư không giới.
Như vậy ta làm sao biết được nói được những công đức hạnh của đại Bồ-tát.
Giai đoạn thứ ba, suy đức thăng tiến. Ngài Đức Vân ca ngợi công đức vô lượng vô biên của chư Bồ-tát, chư thiện tri thức, riêng ngài chỉ được phần nhỏ. Thiện Tài đến với ngài chỉ học được một phần, muốn tiến đến viên mãn phải tìm cầu thêm, không phải được bao nhiêu đó là đủ. Đó gọi là suy đức hạnh trí, tức là suy cử đức hạnh của chư Bồ-tát để khuyến khích thăng tiến không dừng một chỗ.
Sở dĩ chúng ta tu không tiến vì được chỗ nào thì thỏa mãn ở đó, chỉ tu một hạnh mà tưởng đã viên mãn. Muốn làm Bồ-tát phải đầy đủ muôn hạnh, vì vậy ngài Đức Vân ca ngợi công hạnh chư Bồ-tát khác và giới thiệu vị thiện tri thức tiếp theo.
Này Thiện nam tử! Phương Nam có một nước tên là Hải Môn, nơi đó có Tỳ-kheo tên là Hải Vân. Ngươi đến hỏi Hải Vân rằng: Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Tỳ-kheo Hải Vân có thể phân biệt nói nhân duyên phát khởi thiện căn quảng đại.
Này Thiện nam tử Tỳ-kheo Hải Vân sẽ làm cho ngươi nhập ngôi trợ đạo quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức thiện căn quảng đại, sẽ vì ngươi mà nói nhân duyên phát tâm Bồ đề, sẽ làm cho ngươi sanh quang minh Đại thừa quảng đại, sẽ làm cho ngươi tu ba-la-mật quảng đại, sẽ làm cho người nhập những hạnh hải quảng đại, sẽ làm cho ngươi viên mãn thệ nguyện quảng đại, sẽ làm cho ngươi tịnh môn trang nghiêm quảng đại, sẽ làm cho ngươi sanh sức từ bi quảng đại.
Giai đoạn thứ tư là giới thiệu. Phàm là thiện tri thức muốn người tu học tiến thêm thì phải giới thiệu pháp môn cao hơn để giúp người tu tiến, không thể nói tu như tôi là đủ, cho bao nhiêu đó là đủ.
Tham vấn đầu tiên của Thiện Tài đã xong, mỗi lần tham vấn đều có bốn giai đoạn như nhau, tôi dẫn ra đầy đủ, đến các vị thiện tri thức khác cũng giống như vậy.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Tỳ-kheo Đức Vân, hữu nhiễu quán sát, từ tạ mà đi. Thiện Tài đồng tử nhất tâm suy gẫm lời dạy của thiện tri thức. Chánh niệm quán sát trí tuệ quang minh môn, Bồ-tát giải thoát môn, Bồ-tát tam-muội môn, Bồ-tát đại hải môn, chư Phật hiện tiền môn, chư Phật phương sở môn, chư Phật quỹ tắc môn, chư Phật đẳng hư không giới môn, chư Phật xuất hiện thứ đệ môn, chư Phật sở nhập phương tiện môn.
Khi nghe thiện tri thức chỉ dạy, nếu nghe rồi bỏ đi thì pháp môn đó có thành tựu không? Vì thế khi nghe dạy rồi phải nhất tâm tư duy quán sát, do tư duy quán sát nên chứng nhập pháp môn của thiện tri thức dạy. Đến đây, Thiện Tài thành tựu một hạnh của Bồ-tát, đã chứng bậc thứ nhất Sơ phát tâm trụ, bắt đầu tiến lên bậc thứ hai là Trị địa trụ.
Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến nước Hải Môn, đến chỗ Tỳ-kheo Hải Vân, đảnh lễ chân Hải Vân, hữu nhiễu xong chắp tay bạch rằng:
Hải Môn là cửa biển như cửa biển Vũng Tàu, nhưng đây có tánh cách là cửa thoát khỏi biển luân hồi. Tỳ-kheo Hải Vân thâm nhập pháp quán sâu như biển, rộng như mây nên gọi là Hải Vân.
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, muốn nhập tất cả trí hải vô thượng, mà chưa biết Bồ-tát thế nào có thể bỏ nhà thế tục sanh vào nhà Như Lai? Thế nào có thể qua khỏi biển sanh tử vào được biển Phật trí? Thế nào lìa được hàng phàm phu vào được hàng Như Lai? Thế nào dứt được dòng sanh tử vào được dòng Bồ-tát hạnh? Thế nào phá được xe sanh tử thành xe Bồ-tát nguyện? Thế nào diệt được cảnh giới ma hiển được cảnh giới Phật? Thế nào cạn được biển ái dục thêm lớn biển đại bị? Thế nào đóng được cửa các nạn các ác đạo mở được cửa đại Niết-bàn? Thế nào ra khỏi thành tam giới vào được thành Nhất thiết trí? Thế nào vất bỏ được tất cả vật ngoạn hảo để đem lợi ích tất cả chúng sanh?
Bậc Trị địa trụ Bồ-tát lấy giới ba-la-mật làm chánh, những pháp kia làm phụ, các câu hỏi đều nhắm vào chỗ gạn lọc sạch phiền não để được giác ngộ giải thoát. Chữ Trị địa tức là gạn lọc, dùng giới để gạn lọc phiền não. Giới là thuyền bè, là phao nổi để phàm phu qua khỏi biển sanh tử, diệt cảnh giới ma vào cảnh giới Phật…
Tỳ-kheo Hải Vân bảo Thiện Tài đồng tử rằng: Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề rồi ư?
Thiện Tài thưa: Vâng, tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Tỳ-kheo Hải Vân nói: Thiện nam tử! Nếu các chúng sanh chẳng gieo căn lành thời chẳng có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề. Cần phải được phổ môn thiện căn quang minh, đủ chân thật đạo tam-muội trí quang, xuất sanh những phước hải quảng đại, tăng trưởng pháp bạch tịnh không có lười nghỉ, thờ thiện tri thức chẳng mỏi nhàm, chẳng kể thân mạng, không hề cất chứa, tâm bình đẳng như mặt đất không có niệm cao hạ, tánh thường từ mẫn với tất cả chúng sanh, nơi các loài sanh tử chuyên niệm chẳng bỏ, hằng thích quán sát cảnh giới Như Lai. Có như vậy mới phát được tâm vô thượng Bồ-đề.
Phát Bồ-đề tâm là phát tâm đại bi vì cứu khắp tất cả chúng sanh. Là phát tâm đại từ, vì khắp giúp tất cả thế gian. Là phát tâm an lạc, vì làm cho tất cả chúng sanh diệt tất cả khổ. Phát tâm lợi ích, vì làm cho tất cả chúng sanh lìa ác pháp. Phát tâm ai mẫn, vì có ai kinh sợ thời đều giữ gìn. Phát tâm vô ngại, vì rời bỏ tất cả chướng ngại. Phát tâm quảng đại, vì tất cả pháp giới đều đầy khắp. Phát tâm vô biên, vì khắp cõi hư không đều qua đến. Phát tâm rộng rãi, vì đều thấy tất cả Như Lai. Phát tâm thanh tịnh, vì trí không trái với pháp tam thế. Phát tâm trí tuệ, vì vào khắp biển Nhất thiết trí tuệ.
Các thiện tri thức nghe Thiện Tài nói đã phát Bồ-đề tâm thì vị nào cũng đều khen ngợi, vì Bồ-đề tâm là nhân chủng thành Phật, Bồ-tát đạo là con đường thành Phật. Thiện tri thức là những người vun quén cho hạt giống Bồ-đề nảy nở sanh trưởng. Vị nào cũng khen ngợi Bồ-đề tâm vì chính từ hạt giống Bồ-đề tâm đó mà các ngài có thể vun quén bồi bổ thành cây Phật quả rộng lớn. Khen ngợi Bồ-đề tâm là chỗ thiết yếu, không vị thiện tri thức nào bỏ qua.
Phần thứ nhất đã xong, phần thứ hai nói về pháp sở tu của ngài.
Này Thiện nam tử! Ta ở nước Hải Môn này đã mười hai năm, thường dùng đại hải làm cảnh giới.
Những là suy gẫm dại hải quảng đại vô lượng. Suy gẫm đại hải rất sâu khó lường. Suy gẫm đại hải lần lần sâu rộng. Suy gẫm đại hải vô lượng châu báu kỳ diệu trang nghiêm. Suy gẫm đại hải chứa vô lượng nước. Suy gẫm đại hải màu nước chẳng đồng không thể nghĩ bàn. Suy gẫm đại hải là chỗ ở vô lượng chúng sanh. Suy gẫm đại hải dung thọ những chúng sanh thân to lớn. Suy gẫm đại hải nạp thọ được nước của trận mưa lớn. Suy gẫm đại hải không tăng không giảm.
Này Thiện nam tử! Lúc suy gẫm như vậy, ta lại nghĩ rằng: Trong thế gian còn có gì rộng lớn hơn đại hải này chăng? Còn có gì vô lượng hơn đại hải này chăng? Còn có gì rất sâu hơn đại hải này chẳng? Còn có gì báu lạ hơn đại hải này chăng?
Này Thiện nam tử! Lúc ta suy gẫm như vậy, bỗng có đại liên hoa xuất hiện.
Pháp môn tu của Tỳ-kheo Hải Vân là quán sát suy gẫm về biển cả. Các nhà giảng kinh đều nói bậc Trị địa trụ phần nhiều dùng pháp quán Thập nhị nhân duyên, nên đây ngài nói mười hai năm thường dùng đại hải làm cảnh giới. Vì sao Thập nhị nhân duyên là pháp quán đại hải? Vì chúng sanh mê lầm mười hai nhân duyên nên lăn lộn trong biển sanh tử. Mười hai nhân duyên là pháp quán của hàng Nhị thừa, đây cũng là pháp quán của Bồ-tát. Hàng Nhị thừa tu Tứ đế Thập nhị nhân duyên, nhưng sức quán có giới hạn, Bồ-tát cũng tu Tứ đế Thập nhị nhân duyên nhưng sức quán vi tế trội hơn.
Tất cả chúng sanh do mê lầm mười hai nhân duyên mà chìm trong biển sanh tử, kiếp kiếp đời đời không lúc nào ra khỏi, ngài dùng pháp quán mười hai nhân duyên suy gẫm cội gốc sanh tử và thấy tận gốc cội nguồn sanh tử, nên nói là suy gẫm đại hải. Suy gẫm tường tận rồi lại nghĩ rằng, mười hai nhân duyên là nguồn gốc của sanh tử, còn có gì lớn hơn, cao hơn không hay chỉ có mười hai nhân duyên là cao tột. Lúc ấy có hoa sen lớn xuất hiện giữa đại hải. Ý nghĩa thế nào? Nghĩa là sau khi quán sát thấu hiểu được nhân duyên sanh tử, lúc ấy trí bất sanh bất diệt, vô sư trí, chân tâm, tự nhiên hiển hiện. Vô sư trí hay chân tâm lớn hơn biển, trùm khắp biển sanh tử. Đây dùng hình ảnh hoa sen để nói lên ý nghĩa này.
Liên hoa này cọng bằng vô năng thắng nhân đà-la-ni la bảo, cánh bằng phệ lưu ly bảo, lá bằng vàng diêm-phù-đàn, đài bằng trầm thủy, tua bằng mã não, nở thơm lan khắp trùm che cả đại hải.
Trăm vạn a-tu-la vương cầm lấy cọng hoa.
Trăm vạn châu ma-ni kết lưới trang nghiêm giăng che trên hoa.
Trăm vạn long vương mưa nước thơm.
Trăm vạn ca-lâu-la vương ngậm những chuỗi ngọc và dải lụa báu rủ thòng bốn phía.
Trăm vạn la-sát vương từ tâm quán sát.
Trăm vạn dạ-xoa vương cung kính đảnh lễ. Trăm vạn càn thát-bà vương nhiều thứ âm nhạc tán thán cúng dường.
Trăm vạn thiên vương mưa những thiên hoa, thiên man, thiên hương, thiên thiêu hương, thiên đồ hương, thiên mạt hương, thiên y phục, thiên tràng, thiên phan, thiên cái.
Trăm vạn Phạm vương đảnh lễ và cung kính.
Trăm vạn Tịnh Cư thiên chắp tay làm lễ.
Trăm vạn Chuyển luân vương cúng dường thất bảo trang nghiêm
Trăm vạn Hải thần đồng xuất hiện cung kính đảnh lễ.
Trăm vạn vị quang ma-ni bảo quang minh chiếu khắp.
Trăm vạn tịnh phước ma-ni bảo dùng để trang nghiêm.
Trăm vạn phổ quang ma-ni bảo làm tạng thanh tịnh.
Trăm vạn thù thắng ma-ni bảo ánh sáng rực rỡ.
Trăm vạn diệu tạng ma-ni bảo quang chiếu vô biên.
Trăm vạn diêm-phù-đàn ma-ni bảo thứ đệ bày hàng.
Trăm vạn kim cang sư tử ma-ni bảo chẳng thể phá hoại thanh tịnh trang nghiêm.
Trăm vạn nhật tạng ma-ni bảo quảng đại thanh tịnh.
Trăm vạn khả lạc ma-ni bảo đủ mọi màu.
Trăm vạn như ý ma-ni bảo trang nghiêm vô tận, quang minh chiếu rực.
Hoa sen to lớn, cọng, cánh, lá, đài tua bằng báu quý, các long vương, la-sát, càn-thát-bà,.. đều đồng kính ngưỡng đảnh lễ hoa sen đó. Những hình ảnh trang nghiêm như vậy để thấy khi tâm phát ngộ, nhà thiền gọi là “tâm hoa khai phát”, thì chẳng khác nào như hoa sen ở dưới biển nở ra, tất cả chúng sanh đều gốc từ tâm, Vì vậy tất cả các vị trời rồng thần,.. đều hướng về hoa sen đó mà cung kính cúng dường trang nghiêm.
Liên hoa lớn này có ra là do thiện căn xuất thế của Như Lai.
Sở dĩ có hoa sen lớn như vậy là do thiện căn xuất thế của Như Lai, tức là gốc lành của chư Phật.
Tất cả Bồ-tát đều sanh lòng tin mến. Thập phương thế giới đều hiện tiền. Từ như huyễn pháp mà sanh, như mộng pháp mà sanh, thanh tịnh nghiệp mà sanh. Trang nghiêm bằng pháp môn vô tránh. Nhập ấn vô vi. Trụ môn vô ngại. Sung mãn tất cả quốc độ mười phương. Tùy thuận cảnh giới thậm thâm của chư Phật. Trong vô số trăm ngàn kiếp ca ngợi công đức đó cũng không hết được.
Lúc đó ta thấy trên liên hoa lớn ấy có một đức Như Lai ngồi kiết già. Thân Phật từ đây cao đến trời Hữu Đảnh.
Khi thấy tường tận cội gốc sanh tử không còn lầm lẫn, đó là lúc tâm khai ngộ biểu hiện bằng hình ảnh hoa sen mọc lên trong biển sanh tử, Phật ngồi kiết già trên hoa sen.
Tòa bảo liên hoa bất tư nghì. Đạo tràng chúng hội bất tư nghì. Những tướng hảo thành tựu bất tư nghì. Tùy hảo viên mãn bất tư nghì. Thần thông biến hóa bất tư nghì. Sắc tướng thanh tịnh bất tư nghì. Vô kiến đảnh tướng bất tư nghì. Tướng lưỡi rộng dài bất tư nghì. Ngôn thuyết thiện xảo bất tư nghì. Âm thanh viên mãn bất tư nghì. Lực vô biên tế bất tư nghì. Thanh tịnh vô úy bất tư nghì. Biện tài quảng đại bất tư nghì.
Ta lại nghĩ nhớ đức Phật đó thuở xưa tu hành bất tư nghì. Tự tại thành đạo bất tư nghì. Diệu âm diễn pháp bất tư nghì. Phổ môn thị hiện các thứ trang nghiêm bất tư nghì. Tùy hai bên thấy Phật đều sai khác bất tư nghì. Tất cả sự lợi ích đều làm cho viên mãn bất tư nghì.
Đức Phật ngồi trên hoa sen đầy đủ tướng hảo, đầy đủ sự biến hóa, đầy đủ sự thanh tịnh, tất cả đều bất khả tư nghì, bất khả thuyết.
Lúc đó, đức Như Lai ấy liền đưa tay hữu rờ đảnh đầu của ta, vì ta mà diễn nói Phổ nhãn pháp môn, khai thị cảnh giới tất cả Như Lai, hiển pháp tất cả hạnh Bồ-tát, xiển minh tất cả diệu pháp của chư Phật, tất cả pháp luân đều nhập trong đó. Có thể thanh tịnh tất cả Phật độ. Có thể dẹp tất cả dị đạo tà luận. Có thể diệt tất cả quân ma. Có thể làm cho chúng sanh đều sanh hoan hỷ. Có thể soi tất cả tâm hành của các chúng sanh. Có thể biết những căn cơ của tất cả chúng sanh, tùy tâm chúng sanh đều làm cho được khai ngộ.
Đức Phật đưa tay xoa đầu Tỳ-kheo Hải Vân và diễn nói pháp môn Phổ nhãn, là pháp môn thấy khắp tất cả.
Khi thể nhập pháp môn này liền thấy tất cả cảnh giới Phật, tuyên dương giáo pháp, thanh tịnh Phật độ, diệt quân ma… Lúc đó tùy thuận tất cả chúng sanh đều làm cho khai ngộ.
Đây là ý nghĩa tâm hoa khai phát, tức là tâm mình đã trổ hoa thì từ biển sanh tử mọc hoa sen, tức tâm tức Phật nên nói Phật ngự trên đài sen. Bồ-tát đến đây biết căn cơ của chúng sanh tùy thuận mà giáo hóa cho được như ý.
Ở nơi đức Như Lai ấy, ta được nghe pháp môn này, thọ trì đọc tụng ghi nhớ quán sát. Giả sử có người dùng nước mực nhiều như nước đại hải, cây viết chất đống lớn như núi Tu-di, biên chép pháp môn Phổ nhãn này, một môn trong một phẩm, một pháp trong một môn, một nghĩa trong một pháp, một câu trong một nghĩa cũng viết chẳng được ít phần huống là có thể viết hết.
Đây là chỗ bất tư nghì, không thể dùng ngôn ngữ văn tự, tâm tư suy nghĩ… bất cứ phương tiện nào diễn tả.
Này Thiện nam tử! Ở nơi đức Phật ấy, ta thọ trì pháp môn Phổ nhãn như vậy trọn một ngàn hai trăm năm.
Trong mỗi ngày, ta dùng Văn trì đà-la-ni quang minh lãnh thọ vô số phẩm. Dùng Tịch tịnh môn đà-la-ni quang minh xu nhập vô số phẩm. Dùng Vô biên triền đà-la-ni quang minh vào khắp vô số phẩm. Dùng Tùy tha quán sát đà-la-ni quang minh phân biệt vô số phẩm. Dùng Oai lực đà-la-ni quang minh nhiếp khắp vô số phẩm. Dùng Liên hoa trang nghiêm đà-la-ni quang minh dẫn phát vô số phẩm. Dùng Thanh tịnh ngôn âm đà-la-ni quang minh khai diễn vô số phẩm. Dùng Hư không tạng đà-la-ni quang minh hiển thị vô số phẩm. Dùng Quang tụ đà-la-ni quang minh thêm rộng vô số phẩm. Dùng Hải tạng đà-la-ni quang minh luận biện phân tích vô số phẩm.
Nếu có chúng sanh từ mười phương đến, hoặc thiên, hoặc thiên vương, hoặc long, hoặc long vương, hoặc dạ-xoa, hoặc dạ-xoa vương, hoặc càn thát-bà hoặc càn thát-bà vương, hoặc a-tu-la, hoặc a-tu-la vương, hoặc ca-lâu-la, hoặc ca-lâu-la vương, hoặc khẩn-na-la, hoặc khẩn-na-la vương, hoặc ma-hầu- la-già, hoặc ma-hầu-la-già vương, hoặc nhân, hoặc nhân vương, hoặc Phạm hoặc Phạm vương. Tất cả đại chúng như vậy đều đến chỗ ta. Ta đều vì họ mà khai thị giải thích xưng dương tán thán. Đều làm cho họ mến thích xu nhập an trụ quang minh Phổ nhãn pháp môn này.
Phần thứ hai Tỳ-kheo Hải Vân đã nói về chỗ tu chứng của mình, nơi biển cả suy nghĩ về khả năng của biển được thấy hoa sen mọc lên, thấy đức Phật ngồi trên hoa sen giảng pháp môn Phổ nhãn. Ngài dùng pháp môn Phổ nhãn tu đầy đủ công dụng, giáo hóa tất cả không ngăn ngại.
Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết Phổ nhãn pháp môn này.
Như chư đại Bồ-tát thâm nhập tất cả Bồ-tát hạnh hải, vì tùy nguyện lực mà tu hành. Nhập đại nguyện hải vì ở thế gian trong vô lượng kiếp. Nhập tất cả chúng sanh hải, vì tùy tâm sở thích của họ để rộng lợi ích. Nhập nhất thiết chúng sanh tâm hải, vì xuất sanh thập phương vô ngại trí quang. Nhập nhất thiết chúng sanh căn hải, vì đáng tùy cơ nghi giáo hóa đều làm cho điều phục. Nhập tất cả sát hải, vì thành mãn bổn nguyện nghiêm tịnh Phật độ. Nhập tất cả Phật hải, vì nguyện thường cúng dường chư Như Lai. Nhập tất cả pháp hải, vì có thể dùng trí tuệ đều ngộ nhập. Nhập tất cả công đức hải, vì mỗi mỗi tu hành cho được đầy đủ. Nhập tất cả chúng sanh ngôn từ hải, vì ở tất cả cõi chuyển chánh pháp luân.
Như thế thời ta làm sao biết được nói được công đức hạnh đó.
Đây là phần thứ ba, ca ngợi công đức của chư Bồ-tát, khuyến khích Thiện Tài tiếp tục đến học hỏi.
Này Thiện nam tử! Từ đây qua phương Nam sáu mươi do-tuần, bên đường Lăng-già, có một tụ lạc tên là Hải Ngạn. Ở đó có Tỳ-kheo tên là Thiện Trụ. Ngươi nên đến đó hỏi: Bồ-tát phải thế nào tịnh Bồ-tát hạnh?
Phần thứ tư, giới thiệu vị thiện tri thức khác để học cho đầy đủ.
Kết luận phần này, chúng ta thấy rõ sự tu hành của hàng Bồ-tát Trị địa trụ lấy giới luật làm trên, quán pháp mười hai nhân duyên mà ngộ đạo, dùng đó chỉ dạy cho Thiện Tài.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Tỳ-kheo Hải Vân, hữu nhiễu chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Lúc đó, Thiện Tài đồng tử chuyên niệm lời dạy của thiện tri thức, chuyên niệm Phổ nhãn pháp môn, chuyên niệm Phật thần lực, chuyên trì pháp cú vân, chuyên nhập pháp hải môn, chuyên gẫm pháp sai biệt, thâm nhập pháp xoay chuyển, vào khắp pháp hư không, trừ sạch pháp ế chướng, quán sát pháp bảo xứ.
Thiện Tài chuyên chú ghi nhớ lời dạy của ngài Hải Vân để ứng dụng tu tập tiến lên quả vị thánh, được bậc Trị địa trụ.
Thiện Tài đồng tử vừa tư duy suy gẫm đi lần qua phương Nam, đến bên đường Lăng-già, nơi tụ lạc Hải Ngạn, xem xét mười phương tìm cầu Thiện Trụ Tỳ-kheo. Thấy Thiện Trụ Tỳ-kheo đi kinh hành qua lại ở trên hư không.
Mỗi vị thiện tri thức đều có mỗi hạnh, người ở trên núi, người ở ngoài mé biển, người ở trên hư không. Ngài Thiện Trụ ngày ngày qua lại kính hành trên hư không là vị thiện tri thức thứ ba. Đây là giai đoạn thứ ba của Thập trụ gọi là Tu hành trụ, lấy nhẫn ba-la-mật làm pháp tu dẫn đầu, chín pháp kia làm phụ. Tỳ-kheo Thiện Trụ đi kinh hành trên hư không, đó là ý nghĩa vô sở trụ nên tên ngài là Thiện Trụ. Kinh Kim Cang nói Ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm, chỗ này rất hợp với ý kinh. Do không chỗ trụ nên ngài đạt được pháp môn nhẫn nhục ba-la-mật, quán tất cả pháp không thật nên không khổ, không dính mắc, được an nhẫn vô sanh.
Có vô số chư thiên cung kính vây quanh rưới những thiên hoa, trổi thiên kỹ nhạc, tràng phan gấm lụa thảy đều nhiều vô số đầy khắp hư không để cúng dường.
Chư đại Long vương ở giữa hư không nổi bất tư nghì mây trầm thủy hương, chấn sấm, xẹt chớp, dùng để cúng dường.
Khẩn-na-la vương trổi những tiếng nhạc, đúng pháp ca ngợi, dùng đây để cúng dường.
Ma-hầu-la-già vương dùng bất tư nghì y phục rất vi tế trải giăng trần thiết, lòng rất hoan hỷ để cúng dường.
A-tu-la vương nổi bất tư nghì mây ma-ni bảo, vô lượng quang minh các thứ trang nghiêm đồng khắp hư không dùng để cúng dường.
Ca-lâu-la vương hiện hình đồng tử, có vô lượng thể nữ vây quanh, rốt ráo thành tựu tâm không sát hại, ở giữa hư không chắp tay cúng dường.
Bất tư nghì số các la-sát vương, vô lượng la sát vây quanh, thân hình cao lớn đáng kinh sợ, thấy Thiện Trụ Tỳ-kheo từ tâm tự tại, liền chắp tay khom mình chiêm ngưỡng cúng dường.
Bất tư nghì số các dạ-xoa vương, mỗi vị đều có chúng của mình vây quanh, bao vòng bốn phía cung kính thủ hộ.
Bất tư nghì số các Phạm thiên vương, ở giữa hư không, cúi mình chắp tay dùng pháp nhân gian tán dương ca ngợi.
Bất tư nghì số các Tịnh Cư thiên, với cung điện ở giữa hư không, chắp tay cung kính phát hoằng thệ nguyện.
Rất nhiều chư thiên, long thần, quỷ thần… vây quanh tán thán cúng dường ngài, như trong kinh Bát-nhã nói “Ngài Tu-bồ-đề im lặng được chư thiên cúng dường”. Khi tâm không chỗ trụ thì cảm ứng đến vô số điều kỳ diệu.
Thiện Tài đồng tử thấy những sự trên đây, lòng hoan hỷ chắp tay kính lễ Thiện Trụ Tỳ-kheo rồi bạch rằng:
– Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào tu hành Phật pháp? Thế nào tích tập Phật pháp? Thế nào đầy đủ Phật pháp? Thế nào huân tập Phật pháp? Thế nào tăng trưởng Phật pháp? Thế nào tổng nhiếp Phật pháp? Thế nào cứu cánh Phật pháp? Thế nào tịnh trị Phật pháp? Thế nào thâm tịnh Phật pháp? Thế nào thông đạt Phật pháp?
Tôi nghe đức Thánh hay khéo dạy bảo. Ngưỡng mong xót thương vì tôi mà tuyên nói Bồ-tát thế nào chẳng bỏ thấy Phật, thường ở chỗ Phật siêng năng tu tập? Bồ-tát thế nào chẳng bỏ Phật pháp đều dùng trí tuệ mà được minh chứng? Bồ-tát thế nào chẳng bỏ đại nguyện có thể lợi ích khắp tất cả chúng sanh? Bồ-tát thế nào chẳng bỏ chúng sanh trụ tất cả kiếp không lòng mỏi nhàm? Bồ-tát thế nào chẳng bỏ Phật độ có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới? Bồ tát thế nào chẳng bỏ Phật lực đều có thể thấy biết Như Lai tự tại? Bồ-tát thế nào chẳng bỏ hữu vi mà cũng chẳng trụ hữu vi, ở trong tất cả loài hữu lậu, dường như biến hóa, thị hiện thọ sanh tử tu Bồ-tát hạnh? Bồ-tát thế nào chẳng bỏ nghe pháp đều có thể lãnh thọ chánh giáo của chư Phật? Bồ-tát thế nào chẳng bỏ trí quang vào khắp chỗ sở hành của tam thế trí?
Thiện Trụ Tỳ-kheo bảo Thiện Tài rằng:
– Lành thay! Lành Thay! Này Thiện nam tử! Ngươi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, nay lại phát tâm cầu hỏi Phật pháp, cầu hỏi pháp Nhất thiết trí, Tự nhiên trí.
Đây là tán thán khen ngợi Bồ-đề tâm, khen ngợi tâm cầu học Phật pháp.
Này Thiện nam tử! Ta đã thành tựu môn giải thoát vô ngại. Hoặc đi, hoặc đứng, hoặc đến, hoặc lui, tùy thuận tư duy tu tập quán sát, liền được trí tuệ quang minh tên là Cứu cánh vô ngại.
Chúng sanh có trụ nơi này nơi kia nên bị chướng ngại, ngài vô sở trụ nên được pháp môn vô ngại, đầy đủ tất cả công đức.
Vì được trí tuệ quang minh này nên biết tâm hành của tất cả chúng sanh không chướng không ngại. Biết sự chết và sanh của tất cả chúng sanh. Biết đời trước của tất cả chúng sanh. Biết những sự trong kiếp vị lai của tất cả chúng sanh. Biết những sự trong đời hiện tại của tất cả chúng sanh. Biết ngôn ngữ âm thanh nhiều loại sai biệt của tất cả chúng sanh. Quyết những nghi vấn của tất cả chúng sanh. Biết căn tánh của tất cả chúng sanh. Tùy theo lúc tất cả chúng sanh nên được giáo hóa đều có thể qua đến nơi họ ở. Biết tất cả sát-na, la-bà-mâu-hô-lật-đa, giờ khắc ngày đêm. Biết thứ đệ lưu chuyển trong biển tam thế. Tất cả những sự thấy biết như vậy đều không chướng không ngại. Cũng có thể đem thân mình qua đến tất cả cõi Phật mười phương không chướng ngại. Tại sao vậy? Vì được sức thần thông vô trụ vô tác.
Này Thiện nam tử. Vì ta được sức thần thông này nên ở giữa hư không, hoặc đi, hoặc, đứng, hoặc ngồi, hoặc nằm, hoặc ẩn, hoặc hiển, hoặc hiện một thân, hoặc hiện nhiều thân, đi xuyên qua tường vách như đi nơi trống không. Ở trên hư không ngồi kiết già qua lại tự tại như chim bay. Vào trong đất như xuống nước, đi trên nước như trên đất, khắp thân trên dưới đều phát lửa ngọn như đống lửa lớn. Hoặc có lúc chấn động tất cả đại địa. Hoặc có lúc lấy tay rờ mặt nhật mặt nguyệt. Hoặc hiện thân mình cao đến Phạm cung. Hoặc hiện mây hương đốt. Hoặc hiện mây bảo diệm. Hoặc hiện mây biến hóa. Hoặc hiện mây quang võng. Thảy đều rộng lớn đầy khắp hư không mười phương.
Đây diễn tả chỗ vô trụ vô ngại rất huyền bí lạ thường. Chúng ta tưởng rằng khi tu đến chỗ phá các chấp sanh diệt, có không tương đối, thấy thường lệ những sự vật hiện có đều nằm trong tương đối, bèn sanh nghi diệt hết tương đối, thoát khỏi tương đối thì e rằng đến chỗ vô nghĩa chăng? Kinh Hoa Nghiêm chỉ cho ta thấy khi vượt ra khỏi tương đối liền thấy được cảnh giới rực rỡ phi thường như đoạn kinh này miêu tả.
Nhà thiền có câu “Sơn cùng thủy tận nghi vô lộ, liễu ám hoa minh biệt nhất thôn”, nghĩa là núi cùng sông hết nghi không lối, liễu biếc hoa tươi riêng một thôn. Các thiền sư diễn tả rất đơn giản. Kinh Hoa Nghiêm diễn tả cảnh tượng rộng lớn không thể nghĩ bàn, dùng những từ bất khả thuyết vi trần sát quốc độ… Những điều này không thể dùng trí tưởng tượng, không thể dùng ngôn ngữ nói cho tận cùng, ý chỉ rằng khi chúng ta vượt khỏi vòng tương đối chấp chặt thì sẽ được chỗ tự tại vô ngại không lường không thể tính kể.
Đây nói về ngài Thiện Trụ không còn chỗ trụ chỗ chấp nên được tự tại, biết tất cả hư dối, biết tất cả tâm niệm chúng sanh, biết tất cả thần thông tự tại, đi đứng tự tại vô ngại… Hiểu rõ ý này, tin chắc vào sự tu ứng tự tại hành của mình để khéo vượt qua những chướng ngại, lúc đó sẽ được an lạc tự tại vô lượng vô biên. Thế nên kinh Hoa Nghiêm dùng hình ảnh các vị Bồ-tát, các thầy Tỳ-kheo hoặc ở trên núi, hoặc ở trên hư không, có sức thần thông huyền bí để diễn tả cảnh giới tâm tự tại như thế.
Hoặc trong một niệm qua phương Đông một thế giới, hai thế giới, trăm thế giới, ngàn thế giới, trăm ngàn thế giới, nhẫn đến qua vô lượng thế giới, bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới. Hoặc qua Diêm-phù-đề vi trần số thế giới. Hoặc qua bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới. Ta ở trước chư Phật Thế Tôn trong tất cả quốc độ đó mà nghe thuyết pháp.
Ở chỗ mỗi đức Phật, hiện vô lượng Phật sát vi trần số thân sai khác.
Mỗi mỗi thân rưới vô lượng Phật sát vi trần số mây đồ cúng dường. Những là mây tất cả hoa, mây tất cả hương, mây tất cả tràng hoa, mây tất cả hương bột, mây tất cả hương thoa, mây tất cả lọng, mây tất cả y phục, mây tất cả tràng, mây tất cả phan, mây tất cả trướng. Đem tất cả thân vân cúng dường lên chư Phật.
Mỗi đức Như Lai có bao nhiêu lời dạy bảo ta đều thọ trì cả.
Mỗi quốc độ có bao nhiêu sự trang nghiêm, ta đều nhớ rõ cả.
Tất cả chín phương kia cũng đều như phương Đông.
Bao nhiêu chúng sanh trong tất cả thế giới như vậy, nếu được thấy thân của ta, thời đều quyết định được Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Tất cả chúng sanh trong những thế giới đó, ta đều thấy rõ tùy theo sự lớn nhỏ thắng liệt khổ vui của họ mà thị hiện đồng thân hình với họ để giáo hóa cho họ được thành tựu.
Nếu có chúng sanh nào thân cận ta, thời ta làm cho họ an trụ nơi pháp môn như đây.
Đây là nói về chỗ tu chứng của ngài. Kế tiếp đến phần ca ngợi các pháp môn của các Bồ-tát, cần phải học hỏi thêm.
Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn vô ngại giải thoát mau chóng cúng dường khắp chư Phật thành tựu khắp chúng sanh này.
Như chư Bồ-tát trì giới đại bi, giới ba-la-mật, giới Đại thừa, giới tương ưng với Bồ-tát đạo, giới vô chướng ngại, giới chẳng thối đọa, giới chẳng bỏ tâm Bồ-đề, giới thường dùng Phật pháp làm cảnh sở duyên, giới thường để ý nơi Nhất thiết trí, giới như hư không, giới không y tựa tất cả thế gian, giới không mất, giới không tổn, giới không khuyết, giới không tạp, giới không trược, giới không hối, giới thanh tịnh, giới ly trần, giới ly cấu.
Những công đức như vậy, ta đâu có thể biết và nói được hết.
Này Thiện nam tử! Từ đây qua phương Nam có một nước tên là Đạt-lý-tỹ-trà, có thành tên là Tự Tại, trong đó có một người tên là Di-già. Ngươi nên đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, trụ Bồ-tát đạo?
Thiện Tài vừa trải qua ba bậc Phát tâm trụ, Trị địa trụ, Tu hành trụ. Ba bậc này nặng về tu hạnh giải thoát, nên dùng hình ảnh các vị Tỳ-kheo tượng trưng hạnh thanh tịnh giải thoát. Bậc thứ tư trở về sau nhập thế thực hành từ bi lợi sanh, nên dùng hình ảnh cư sĩ, Tỳ-kheo, đồng tử… lẫn lộn không nhất định, để thấy mỗi vị mỗi hạnh khác nhau.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Thiện Trụ Tỳ-kheo, hữu nhiễu chiêm ngưỡng lui ra đi về phương Nam.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử nhất tâm chánh niệm pháp môn pháp quang minh tin sâu xu nhập. Chuyên niệm Phật chẳng dứt ngôi Tam bảo. Khen tánh ly dục. Nhớ thiện tri thức. Chiếu khắp tam thế. Nhớ những đại nguyện khắp cứu chúng sanh. Chẳng chấp hữu vi. Rốt ráo tư duy tự tánh của các pháp. Đều có thể nghiêm tịnh tất cả thế giới. Nơi chúng hội đạo tràng của tất cả chư Phật, lòng không chấp trước.
Học được pháp môn vô ngại của Tỳ-kheo Thiện Trụ, Thiện Tài tín sâu, vững bước tham vấn các bậc thiện tri thức. Trên đường tu chúng ta học được một pháp, từ vị thầy này tiến lên học hỏi vị thầy khác, dần dần tiến lên mãi. Một pháp thành tựu rồi thì tiến thêm học pháp khác, càng lúc càng khó, càng lúc càng lên cao dần. Đó là con đường cầu đạo.
Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến thành Tự Tại tìm Di-già, thấy người này đang ngồi trên pháp tòa sư tử nơi chợ giảng thuyết pháp môn Luân tự trang nghiêm. Có mười ngàn người vây quanh nghe pháp.
Pháp môn Luân tự là pháp môn thuộc về chữ nghĩa âm thanh. Đây là bậc thứ tư Sanh quý trụ, lấy hạnh tu tinh tấn làm căn bản, các hạnh kia làm phụ. Sanh quý trụ là sanh trong dòng sang quý, Bồ-tát sau khi vượt qua ba bậc trên đến bậc này được an lành trong thánh pháp không còn bị chướng ngại nữa.
Đến đây tùy cơ giáo hóa chúng sanh không mong cầu giải thoát mà nhập tục độ sanh, vì thiện tri thức chỉ là một người thế tục. Ngài đã sanh trong nơi sang quý, đây gọi là thành Tự tại, ngồi trên tòa sư tử giữa chợ thuyết pháp môn Luân tự trang nghiêm. Vì nhập tục độ sanh nên ngồi giữa chợ, không giảng Phật pháp, chỉ nói pháp thế gian như dạy sinh ngữ, dạy nghề này nghề kia… Sở dĩ lấy tinh tấn làm căn bản, vì vào đời độ sanh mà thiếu tinh tấn dũng mãnh thì bị chướng ngại liền. Ngồi tu trên núi trên non mà thiếu tinh tấn còn khả dĩ chấp nhận, nếu vào đời độ sanh mà thiếu tinh tấn thì tất nhiên sẽ bị thối đọa. Vì thế cần lấy hạnh tinh tấn làm trên.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Di-già, hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính bạch rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà tôi chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Thế nào lưu chuyển trong các loài mà chẳng quên mất tâm Bồ-đề? Thế nào được ý bình đẳng kiên cố bất động? Thế nào được tâm thanh tịnh không gì trở ngại được? Thế nào phát sanh sức đại bi hằng không mỏi nhọc? Thế nào nhập đà-la-ni khắp được thanh tịnh? Thế nào phát sanh trí tuệ quảng đại quang minh nơi tất cả pháp lìa những ám chướng? Thế nào đủ sức vô ngại giải biện tài quyết rõ tất cả nghĩa tạng thậm thâm? Thế nào được sức chánh niệm ghi nhớ thọ trì tất cả pháp luân sai biệt? Thế nào được sức tịnh đạo, nơi tất cả loài khắp diễn thuyết các pháp? Thế nào được sức trí tuệ nơi tất cả pháp đều có thể quyết định phân biệt nghĩa đó?
Di-già bảo Thiện Tài rằng:
– Ngươi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề rồi ư?
– Vâng, tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Di-già liền vội vàng rời tòa sư tử mọp lạy Thiện Tài. Rồi lại rải bông kim ngân, bảo châu vô giá, cùng với bột mịn chiên đàn, vô lượng thứ y trùm trên mình Thiện Tài.
Chỗ này rất lạ. Như vầy ai lớn ai nhỏ? Nếu Thiện Tài cao hơn thì còn đi hỏi thiện tri thức làm gì, nếu vị này cao hơn thì tại sao lạy Thiện Tài? Đây có hai ý. Ý thứ nhất, ngài Di-già là nhập tục độ sanh, Thiện Tài đồng tử là phát tâm vô thượng Bồ-đề, duyên với Căn bản trí do sự giáo hóa của ngài Văn-thù. Trưởng giả Di-già nhập tục độ sanh nhưng không rời xa Căn bản trí, đó là ý nghĩa mọp lạy Thiện Tài. Ý thứ hai, ngài Thiện Tài là người phát Bồ-đề tâm, ngài Di-già là người thế tục ở giữa chợ, để tỏ lòng người tục kính người tu nên đảnh lễ. Ý thứ hai là nghĩa thường, ý thứ nhất sâu kín hơn.
Di-già lại rải vô lượng những thứ hương hoa, các thứ phẩm vật để cúng dường. Sau đó mới đứng dậy khen rằng: Lành thay! Lành thay! Thiện nam tử có thể phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Này Thiện nam tử! Nếu có ai phát được tâm vô thượng Bồ-đề thời là chẳng dứt mất tất cả Phật chủng. Thời là nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Thời là thành thục tất cả chúng sanh. Thời là thấu rõ tất cả pháp tánh. Thời là tỏ ngộ tất cả nghiệp chủng. Thời là viên mãn tất cả các hạnh. Thời là chẳng dứt tất cả đại nguyện. Thời là thật hiểu chủng tánh ly tham. Thời có thể thấy rõ tam thế sai biệt. Thời làm cho tín giải trọn được kiên cố. Thời được tất cả Như Lai nhiếp trì. Thời được tất cả chư Phật ức niệm. Thời bình đẳng với tất cả Bồ-tát. Thời được tất cả hiền thánh khen mừng. Thời được tất cả Phạm vương kính lễ. Thời được tất cả thiên vương cúng dường. Thời được tất cả dạ-xoa thủ hộ. Thời được tất cả la-sát hầu hạ. Thời được tất cả long vương nghinh tiếp. Thời được tất cả khẩn-na-la vương ca ngâm khen ngợi. Thời được tất cả các Thế Chủ khen ngợi mừng vui. Thời làm cho tất cả chúng sanh giới đều được an ổn.
Những là làm cho họ bỏ ác thú. Làm cho họ ra khỏi chỗ nạn. Làm cho họ dứt tất cả cội gốc nghèo cùng. Làm cho họ sanh tất cả trời người vui sướng. Làm cho họ thân cận thiện tri thức. Làm cho họ được nghe và thọ trì pháp quảng đại. Làm cho họ sanh tâm Bồ-đề. Làm cho họ tịnh tâm Bồ-đề. Làm cho họ rõ Bồ-tát đạo. Làm cho họ nhập Bồ-tát trí. Làm cho họ trụ Bồ-tát địa.
Này Thiện nam tử! Phải biết chỗ làm của Bồ-tát rất khó, khó ra, khó gặp. Người được thấy Bồ-tát lại còn khó có hơn,
Vì Bồ-tát là chỗ tất cả chúng nương nhờ mà được sanh trưởng thành tựu. Là chỗ cứu tế của tất cả chúng sanh, vì Bồ-tát cứu họ khỏi khổ nạn. Là chỗ y tựa của tất cả chúng sanh, vì thủ hộ thế gian. Là người cứu hộ tất cả chúng sanh, vì làm cho họ khỏi sự kinh sợ.
Bồ-tát như phong luân, vì gìn giữ các thế gian chẳng cho đọa lạc ác đạo.
Bồ-tát như đại địa vì tăng trưởng thiện căn cho chúng sanh.
Bồ-tát như đại hải, vì phước đức sung mãn vô tận.
Bồ-tát như mặt trời, vì trí tuệ quang minh chiếu khắp nơi.
Bồ-tát như núi Tu-di, vì thiện căn cao xuất.
Bồ-tát như minh nguyệt, vì trí quang xuất hiện.
Bồ-tát như mãnh tướng, vì xô dẹp ma quân.
Bồ-tát như quân chủ, vì được tự tại trong thành trì Phật pháp.
Bồ-tát như ngọn lửa mạnh, vì cháy sạch tâm ngã ái của chúng sanh.
Bồ-tát như mây lớn, vì mưa vô lượng diệu pháp.
Bồ-tát như mưa phải thời, vì làm thêm lớn mầm tất cả tín căn.
Bồ-tát như thuyền sư, vì chỉ dẫn bờ mé pháp hải. Bồ-tát như cầu đò, vì làm cho chúng sanh qua khỏi biển sanh tử.
Ngài Di-già tán thán Thiện Tài phát tâm vô thượng Bồ-đề là điều hết sức khó, quý hóa vô cùng.
Di-già tán thán Thiện Tài như vậy, làm cho chư Bồ-tát hoan hỷ rồi, từ trên mặt phóng ra những ánh sáng chiếu khắp Đại thiên thế giới.
Chúng sanh trong cõi Đại thiên gặp ánh sáng này, từ long thần nhẫn đến Phạm thiên đều đến chỗ Di-già.
Di già đại sĩ liền dùng phương tiện vì họ mà khai thị giải thích pháp môn Luân tự phẩm trang nghiêm. Đại chúng nghe pháp xong, đều được chẳng thối chuyển nơi vô thượng Bồ-đề.
Di-già đại sĩ giáo hóa chúng sanh trong Tam thiên Đại thiên thế giới, bằng cách phóng quang trên mặt, hiển lộ trí tuệ sáng suốt chiếu khắp Đại thiên, chúng sanh gặp ánh sáng này đều đến nhóm họp nghe pháp.
Lúc bấy giờ Di-già trở lại lên bổn tòa bảo Thiện Tài rằng:
Thiện nam tử! Ta đã được diệu âm đà la ni. Có thể phân biệt biết ngữ ngôn của tất cả chúng sanh, chư thiên, long, bát bộ, trong cõi Đại thiên. Cũng như cõi Đại thiên này, vô số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới khắp mười phương đều biết rõ ngữ ngôn cả.
Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết pháp môn Bồ-tát Diệu Âm Đà-la-ni Quang Minh này.
Như chư đại Bồ-tát có thể vào khắp biển những tư tưởng của tất cả chúng sanh, biển những sự thi thiết, biển những danh hiệu, biển những ngữ ngôn của tất cả chúng sanh.
Có thể vào khắp diễn thuyết biển tất cả pháp cú thâm mật. Diễn thuyết biển tất cả pháp cú cứu cánh. Diễn thuyết biển pháp cú trong tất cả sở duyên có tất cả tam thế sở duyên. Diễn thuyết biển thượng pháp cú. Diễn thuyết biển thượng thượng pháp cú. Diễn thuyết biển pháp cú sai biệt. Diễn thuyết biển pháp cú tất cả sai biệt.
Có thể vào khắp tất cả thế gian chú thuật hải. Tất cả âm thanh trang nghiêm luân. Tất cả sai biệt tự luân tế.
Những công đức như vậy, nay ta làm sao biết hết được, nói hết được.
Đây là suy cử những công đức của các Bồ-tát để khuyến khích Thiện Tài cố gắng nỗ lực học hỏi thêm, tiếp theo ngài giới thiệu.
Này Thiện nam tử! Từ đây qua phương Nam có một tụ lạc tên là Trụ Lâm. Nơi đó có một trưởng giả tên là Giải Thoát.
Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào tu Bồ-tát hạnh? Bồ-tát thế nào thành Bồ tát hạnh? Bồ tát thế nào tích tập Bồ-tát hạnh? Bồ-tát thế nào tư duy Bồ-tát hạnh?
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử nhờ thiện tri thức nên đối với pháp Nhất thiết trí rất tôn trọng, trồng sâu gốc tịnh tín, thêm nhiều lợi ích.
Thiện Tài đảnh lễ chân Di già, rơi lệ buồn khóc nhiễu vô lượng vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Thiện Tài từ tạ ra đi, trong khi từ giã luyến tiếc đến rơi lệ. Sau đó ngài suy gẫm đến pháp của thiện tri thức đã dạy, suy gẫm tức là tu, chính khi tu là đã chứng nhập.
Thiện Tài đồng tử tư duy pháp môn Bồ-tát vô ngại giải đà-la-ni quang minh trang nghiêm. Thâm nhập pháp môn Bồ-tát ngữ ngôn hải. Nghĩ nhớ pháp môn vi tế phương tiện Bồ-tát biết tất cả chúng sanh. Quán sát pháp môn Bồ-tát thanh tịnh tâm. Thành tựu pháp môn Bồ-tát thiện căn quang minh. Tịnh trị pháp môn Bồ-tát giáo hóa chúng sanh. Minh lợi trí môn Bồ-tát nhiếp chúng sanh. Kiên cố pháp môn Bồ-tát quảng đại chí nguyện. Nhiệm trì pháp môn Bồ-tát thù thắng chí nguyện. Tịnh trị pháp môn Bồ-tát tín giải. Tư duy pháp môn Bồ-tát vô lượng thiện tâm. Thệ nguyện kiên cố, tâm không mỏi nhàm. Dùng những mão giáp để tự trang nghiêm. Thâm tâm tinh tấn chẳng thối chuyển. Đủ đức tin bất hoại. Tâm kiên cố như kim cang và như na-la-diên không gì phá hoại được. Giữ gìn tất cả lời dạy của thiện tri thức. Nơi các cảnh giới được trí bất hoại. Phổ môn thanh tịnh việc làm vô ngại. Trí quang viên mãn chiếu khắp tất cả. Đầy đủ tổng trì quang minh của các địa. Biết rõ pháp giới nhiều loại sai biệt, không y không trụ, bình đẳng không hai, tự tánh thanh tịnh, mà khắp trang nghiêm. Nơi các công hạnh đều được rốt ráo. Trí tuệ thanh tịnh rời lìa chấp trước. Biết pháp sai biệt mười phương trí không chướng ngại. Qua khắp xứ sai biệt ở mười phương thân không mỏi lười. Biết rõ những nghiệp sai biệt ở mười phương. Đều hiện thấy Phật sai biệt ở mười phương. Đều thâm nhập thời gian sai biệt ở mười phương. Diệu pháp thanh tịnh sung mãn nơi tâm.Phổ trí tam-muội chiếu rõ nơi tâm.Tâm hằng vào khắp cảnh giới binh đẳng. Được trí tuệ của Như Lai chiếu đến. Dòng Nhất thiết trí tương tục chẳng dứt.
Hoặc thân hoặc tâm đều chẳng rời Phật pháp.
Thiện Tài tư duy thâm nhập được bao nhiêu pháp môn đó, do tư duy mà thân tâm không rời Phật pháp. Từ chỗ này chúng ta nghiệm chỗ tu của mình, con đường Thiền tông tu có khác hơn các pháp môn tu thiền khác. Như hàng Nhị thừa áp dụng Cửu tưởng quán, Tứ niệm xứ quán, Từ bi hỷ xả quán… Áp dụng Cửu tưởng quán thì quán tưởng thây chết từ khi mới tắt thở đến sinh trương, xám đen… đến lúc chỉ còn các khúc xương khô. Quán thuần thục dù nhắm mắt hay mở mắt cũng đều thấy gớm ghê, như thế là thành tựu.
Hoặc dùng phương pháp quán Phật tam-muội. Nhìn tượng Phật rồi đi đến chỗ không có tượng Phật mà ngồi quán tưởng, đến bao giờ thấy như Phật hiện trước mặt, đó là được chánh định tam-muội. Ban đầu tưởng đức Phật bằng tượng, sau tưởng đức Phật còn sống với tất cả tướng tốt, tưởng Phật thuyết pháp… tưởng bao nhiêu hình ảnh hiện ra sống động. Pháp quán tưởng có hình tướng nên dễ thấy, có sự thành công rõ ràng.
Quán tứ đại, như ban đầu quán nước trong thân mình: nước mắt, nước miếng, máu… lúc đầu quán tưởng nước ướt một phần ít, sau quán cả chung quanh đều ướt hết. Có lối dạy quán dễ thực hành, như trước khi ngồi quán người ta múc một thau nước để trước mặt. Người quán tưởng thấy nước trong thau dần dần đầy tràn ra chung quanh đến khi đầy tràn cả hư không, lúc đó là thành tựu pháp quán về nước. Quán đất, lửa, gió cũng vậy, quán các màu sắc cũng vậy. Tất cả đều dùng tâm tưởng, bởi dùng hình tướng làm đối tượng nên dễ thấy dễ biết, đến khi thành tựu thấy nó trùm khắp. Cuối cùng phải phá tất cả hình tướng để trở về tâm, không còn thấy hình tướng nữa.
Tu theo phương pháp niệm Phật đến nhất tâm thì thấy có những tướng như đức Phật Di-đà phóng quang hoặc thấy hoa sen… Trong khi tĩnh tọa niệm Phật, hoặc trong mộng thấy tượng Phật, thấy hào quang, thấy hoa sen… đó là những điềm lành của sự tu hành tiến bộ.
Thiền tông không mượn những hình thức, chỉ dẹp tâm mà không dùng sức tưởng. Tất cả pháp trần là do tâm tưởng. Như khi thấy chiếc xe hơi đẹp, chúng ta khởi niệm. Chiếc xe đã chạy qua rồi, nhưng vừa ngồi chợt nhớ chiếc xe thì hình bóng nó hiện ra, đó gọi là pháp trần. Nếu dùng tâm tưởng hình ảnh nào thì hình ảnh đó hiện, lần đầu nhỏ rồi dần dần lớn, do tưởng mà pháp trần lớn theo sức tưởng của mình, muốn tưởng cái gì nó hiện ra cái nấy. Như vậy hình ảnh trong tâm tưởng thuộc về pháp trần, tưởng là tâm sanh diệt, pháp trần cũng thuộc về sanh diệt, nên chưa phải cứu cánh.
Pháp tu Thiền tông không mượn hình ảnh mà nhắm vào tự tâm. Các pháp thiền quán khác dù có mượn hình ảnh nào rồi cũng phải dẹp để trở về tự tâm, chẳng bằng ngay đây đi thẳng vào tự tâm chẳng nhanh hơn sao, nên nói đốn tu là vậy. Tu thẳng không dùng phương tiện, nếu tu thiền dùng phương tiện đều là pháp thiền quán tưởng như đã nói ở trước. Chúng ta biết pháp trần đều là vọng tưởng, vọng tưởng không có thì pháp trần làm sao có. Thẳng như vậy trở về chỗ thanh tịnh nhất tâm mà không mượn phương tiện, không dùng hình ảnh, nên sự tu khó thấy, khó chứng nghiệm bước tiến của mình.
Như Lục diệu pháp môn, trước tiên dùng Sổ tức quán đếm hơi thở, đến khi nào không lầm lộn, tâm an định, đó là tiến được một bước. Đến Tùy tức cũng vậy, quán thấy hơi thở ra vô nhẹ nhàng không còn loạn tưởng, đó là tiến thêm một bước nữa. Cứ như vậy mà tiến dần đến sáu bậc. Bởi có sáu bậc, nên người tu thấy mình có tiến từ bước này qua bước kia. Thiền tông thì cứ ngay nơi tâm mà trị, không nói tiến đến bậc nào, khi tâm rỗng rang như hư không, với ngoại cảnh không còn dính chấp, đó là tự tại. Người không thấu hiểu pháp tu thấy không có phương tiện, không có bước tiến nên đâm ra thối chuyển. Chúng ta hiểu rồi thì trở về tâm là chỗ không hình ảnh không cấp bậc.
Trở lại trường hợp ngài Thiện Tài hoặc thân hoặc tâm chẳng rời Phật pháp, chúng ta cũng vậy. Người tu thiền đến lúc đi đứng nằm ngồi đều làm chủ tự tại không bị vọng tưởng chi phối, đó là thân tâm không rời Phật pháp. Như người niệm Phật đi đứng nằm ngồi đều nhiếp tâm niệm Phật thì cũng gọi là thân tâm không rời Phật pháp. Nếu khi đi thì tỉnh khi ngồi thì mê, hoặc khi ngồi thì tỉnh khi đi thì mê, đó là thân tâm rời Phật pháp. Nhân đây ngài Thiện Tài đối với dòng Nhất thiết trí liên tục chẳng dứt, nghĩa là đối với trí giác của Phật được liên tục cũng là thân tâm chẳng rời Phật pháp. Chứng nghiệm điều này, khi nằm mộng cũng có thể nương vào đó để biết sức của mình nhiều hay ít. Như người niệm Phật, khi mộng thấy Phật Di-đà phóng quang hoặc thấy hoa sen nở… đó là những điềm lành của người niệm Phật. Chúng ta tu thiền, trong khi mộng thấy mình đối với tất cả cảnh sáu trần quấy nhiễu mà vẫn không nhiễm, vẫn làm chủ tự tại, đó là bước tiến đáng kể. Khi tỉnh làm chủ, khi ngủ mê vẫn làm chủ tự tại, đó là sức tu mạnh, thân tâm không rời Phật pháp.
Tuy mộng không thật nhưng cũng là kinh nghiệm biết sự huân tập sâu dày, biết sự tu của mình có tiến hay không. Nhiều người không biết, thấy mộng lành rồi đem khoe, tưởng như mình được điều huyền bí. Như thế dễ lạc đường tà, cho rằng mình chứng đắc. Chỉ cần xoay lại xét tâm mình, thấy tâm thường tỉnh thì biết ngày đó có sức tu nhiều, thấy tâm thường mê thì biết mình tu ít. Như ngài Thiện Tài khi được thiện tri thức chỉ dạy, luôn quán sát tư duy thân tâm không rời Phật pháp, đó là chứng nhập vào pháp môn.
Tất cả chư Phật thần lực gia hộ. Tất cả Như Lai quang minh chiếu đến. Thành tựu đại nguyện. Nguyện thân cùng khắp tất cả sát võng, tất cả pháp giới vào khắp thân mình.
Thân tâm không rời Phật pháp, nên lúc nào cũng được Phật gia hộ, cũng được hào quang Phật chiếu đến, sở dĩ bị ma phá vì thân tâm rời Phật pháp. Điều này rất dễ hiểu. Đến đây Thiện Tài thành tựu nguyện lớn, thân tâm vào khắp pháp giới.
Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam, trải qua mười hai năm, đến thành Trụ Lâm tìm Giải Thoát trưởng giả. Lúc đã gặp được, Thiện Tài đánh lễ chân Trưởng giả chắp tay cung kính thưa rằng:
Trải qua mười hai năm Thiện Tài đến thành Trụ Lâm gặp trưởng giả Giải Thoát. Thiện tri thức có nhiều bậc, Bồ-tát tùy theo tâm nguyện chúng sanh khi thị hiện làm Tỳ-kheo, khi thì cư sĩ, khi thì trưởng giả, khi thì tể quan, khi thì vua chúa.., Bồ-tát đến bậc này đầy đủ phương tiện đáp ứng tâm nguyện của chúng sanh. Trưởng giả nghĩa là người giàu có, đầy đủ phương tiện mà không mắc kẹt không dính không chấp. Chỗ ở gọi là Trụ Lâm, thành vững chãi phong nhiêu như rừng. Những tên hiệu này để diễn tả giai vị Bồ-tát đến bậc thứ năm trong Thập trụ, là bậc Cụ túc phương tiện trụ.
Bạch đức Thánh! Nay tôi được hội ngộ bậc thiện tri thức. Tôi đã được lợi ích rộng lớn.
Trải qua bốn vị thiện tri thức, Thiện Tài đã được lợi ích lớn, đến đây gặp vị thiện tri thức thứ năm, ngài trình bày những lợi ích đó.
Tại sao vậy? Vì với các bậc thiện tri thức, khó được thấy, khó được nghe, khó được xuất hiện, khó được phụng sự, khó được gần gũi, khó được tiếp rước, khó được gặp gỡ, khó được ở chung, khó làm cho vui đẹp, khó được theo dõi. Mà nay tôi được gặp gỡ, nên tôi được lợi lành rộng lớn.
Thiện Tài tự thấy chủng duyên của mình rất sâu dày, đối với thiện tri thức khó gặp, khó được gần mà bây giờ được gặp, được gần thật là điều ít có.
Bạch đức Thánh! Tôi đã trước phát tâm vô thượng Bồ-đề, vì muốn thờ tất cả chư Phật, vì muốn gặp tất cả chư Phật, vì muốn thấy tất cả chư Phật, vì muốn nhìn tất cả chư Phật, vì muốn biết tất cả chư Phật, vì muốn chứng tất cả chư Phật bình đẳng, vì muốn phát tất cả chư Phật đại nguyện, vì muốn thành mãn tất cả chư Phật đại nguyện, vì muốn đầy đủ tất cả chư Phật trí quang, vì muốn thành những hạnh của tất cả chư Phật, vì muốn được thần thông của tất cả chư Phật, vì muốn đầy đủ trí lực của tất cả chư Phật, vì muốn được vô úy của tất cả chư Phật, vì muốn nghe pháp của tất cả chư Phật, vì muốn thọ pháp của tất cả chư Phật, vì muốn hiểu pháp của tất cả chư Phật, vì muốn hộ pháp của tất cả chư Phật, vì muốn đồng một thể với tất cả chúng Bồ-tát, vì muốn đồng thiện căn với tất cả Bồ-tát, vì muốn viên mãn ba-la-mật của tất cả Bồ-tát, vì muốn thành tựu hạnh tu hành của tất cả Bồ-tát, vì muốn xuất sanh thanh tịnh nguyện của tất cả Bồ-tát, vì muốn được tạng oai thần của tất cả chư Phật Bồ-tát, vì muốn được pháp tạng vô tận trí tuệ đại quang minh của tất cả Bồ-tát, vì muốn được tạng tam-muội quảng đại của tất cả Bồ-tát, vì muốn thành tựu tạng vô lượng vô số thần thông của tất cả Bồ-tát, vì muốn dùng tạng đại bi giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh đều làm cho họ rốt ráo đến biên tế, vì muốn hiển hiện tạng thần biến, vì ở trong tất cả tạng tự tại đều dùng tự tâm được tự tại, vì muốn nhập trong thanh tịnh tạng nên dùng tất cả tướng mà trang nghiêm.
Ngài phát tâm Bồ-đề vì cầu được như Phật, thấy Phật, gặp Phật, nhìn Phật, tất cả đều được như Phật, Bồ-tát.
Bạch đức Thánh! Nay tôi đem tâm như vậy, ý như vậy, thích như vậy, muốn như vậy, trông mong như vậy, tư duy như vậy, tôn trọng như vậy, phương tiện như vậy, cứu cánh như vậy, khiêm hạ như vậy, mà đến chỗ đức Thánh.
Tôi nghe đức Thánh có thể khéo dạy bảo chúng Bồ-tát, có thể dùng phương tiện xiển minh chỗ sở đắc, chỉ cho đường sá, ban cho cầu dò, trao cho pháp môn, khiến trừ chướng mê đảo, nhổ mũi tên do dự, cắt lưới nghi hoặc, soi tâm rừng rậm, rửa tâm nhơ đục, khiến tâm trắng sạch, khiến tâm thanh tịnh, chánh tâm dua vạy, tuyệt tâm sanh tử, ngăn tâm bất thiện, mở tâm chấp trước.
Nơi chỗ chấp trước làm cho tâm giải thoát, ở chỗ nhiễm ái làm cho tâm động chuyển. Khiến họ mau nhập cảnh Nhất thiết trí. Khiến họ mau đến thành Vô thượng pháp. Khiến họ trụ đại bi. Khiến họ trụ đại từ. Khiến họ nhập Bồ-tát hạnh. Khiến họ tu môn tam-muội. Khiến họ nhập chứng vị. Khiến họ quán pháp tánh. Khiến họ tăng trưởng lực. Khiến họ tu tập hạnh. Tâm họ bình đẳng khắp ở tất cả.
Cúi xin đức Thánh vì tôi tuyên nói Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo. Theo chỗ tu tập mau được thanh tịnh, mau được minh liễu.
Lúc đó Giải Thoát trưởng giả do sức thiện căn quá khứ, sức oai thần của Phật, do niệm lực của Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát, mà nhập Bồ-tát tam-muội môn tên là Vô biên triền đà-la-ni nhiếp khắp tất cả cõi Phật.
Các Bồ-tát nhập định đều do sức thiện căn từ quá khứ của mình, do sức gia hộ của Phật và do niệm lực của Văn-thù, tức là Căn bản trí. Thiện căn tu tập là yếu tố cần thiết, giúp người tu nhận được sự gia bị của chư Phật, niệm lực của Văn-thù chính là Căn bản trí của mỗi người. Đầy đủ các nhân duyên này thì được nhập chánh định.
Nhập tam-muội này rồi được thân thanh tịnh. Ở trong thân mình hiển hiện mười phương, mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Phật và quốc độ, chúng hội đạo tràng, các thứ quang minh, các sự trang nghiêm. Cũng hiện những thần thông biến hóa, tất cả đại nguyện, những pháp trợ đạo tu hành thuở xưa của chư Phật và những hạnh xuất ly thanh tịnh trang nghiêm. Cũng thấy chư Phật thành Đẳng chánh giác chuyển diệu pháp luân giáo hóa chúng sanh. Tất cả những sự như vậy thảy đều hiển hiện trong phân thân không chướng ngại. Các thứ hình tướng, nhiều loại thứ đệ an trụ như cũ chẳng tạp loạn nhau.
Những là các thứ quốc độ, các thứ chúng hội, các thứ đạo tràng, các thứ nghiêm sức.
Trong đó chư Phật hiện những thần lực, lập những thừa đạo, bày những nguyện môn.
Hoặc nơi một thế giới, ở cung Đâu-suất mà làm Phật sự.
Hoặc nơi một thế giới, ẩn cung Đâu-suất mà làm Phật sự.
Như vậy, hoặc lại trụ thai, hoặc đản sanh, hoặc ở trong cung, hoặc xuất gia, hoặc đến đạo tràng, hoặc phá ma quân, hoặc chư thiên long cung kính vây quanh, hoặc các Thế Chủ khuyến thỉnh thuyết pháp, hoặc chuyển pháp luân, hoặc nhập Niết-bàn, hoặc chia xá-lợi, hoặc xây tháp miếu.
Chư Phật Như Lai đó ở các chúng hội, các thế gian, các loài, các chủng tộc, các dục lạc, các nghiệp hành, các ngữ ngôn, các căn tánh, các phiền não, tùy miên, tập khí, trong các chúng sanh.
Hoặc ở vi tế đạo tràng, hoặc ở quảng đại đạo tràng, hoặc ở đạo tràng lượng một do-tuần, hoặc ở đạo tràng lượng mười do-tuần, hoặc ở đạo tràng lượng bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vi trần số do-tuần.
Dùng các thứ thần thông, các thứ ngôn từ, các thứ âm thanh, các thứ pháp môn, các thứ tổng trì môn, các thứ biện tài môn. Dùng các thứ Thánh đế, các thứ vô úy đại sư tử hống mà diễn thuyết những thiện căn, những ức niệm của các chúng sanh. Thọ ký cho Bồ-tát. Nói những Phật pháp.
Chư Phật Như Lai có bao nhiêu ngôn thuyết, Thiện Tài đồng tử đều nghe thọ được cả. Cũng thấy bất tư nghì tam-muội thần biến của chư Phật và chư Bồ-tát.
Lúc bấy giờ Giải Thoát trưởng giả xuất tam-muội, bảo Thiện Tài rằng:
Thiện nam tử! Ta đã nhập xuất môn vô ngại trang nghiêm giải thoát của Như Lai.
Thiện nam tử! Lúc ta nhập xuất môn giải thoát này, liền thấy thế giới Diêm phù-đàn Kim Quang Minh ở phương Đông, đức Long Tự Tại Vương Như Lai Đẳng chánh giác, chúng hội đạo tràng vây quanh. Tỳ-lô-giá-na Tạng Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy thế giới Tốc Tật Lực ở phương Nam, Phổ Hương Như Lai Đẳng chánh giác và đạo tràng chúng hội vây quanh. Tâm Vương Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy thế giới Hương Quang ở phương Tây, Tu-di Đăng Vương Như Lai Đẳng chánh giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Ngại Tâm Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy thế giới Ca-sa Tràng ở phương Bắc, Bất Khả Hoại Kim Cang Như Lai Đẳng chánh giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim Cang Dũng Mãnh Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy phương Đông Bắc, thế giới Nhất Thiết Thượng Diệu Bảo, đức Vô Sở Đắc Cảnh Giới Nhãn Như Lai Đẳng chánh giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Vô Sở Đắc Thiện Biến Hóa Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy phương Đông Nam, thế giới Hương Diệm Quang Âm, đức Hương Đăng Như Lai Đẳng chánh giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Kim Cang Diệm Huệ Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy phương Tây Nam, thế giới Trí Tuệ Nhật Phổ Quang Minh, đức Pháp Giới Luân Tràng Như Lai Đẳng chánh giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Hiện Nhất Thiết Biến Hóa Tràng Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy phương Tây Bắc, thế giới Phổ Thanh Tịnh, đức Nhất Thiết Phật Bảo Cao Thắng Tràng Như Lai Đẳng chánh giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Tràng Vương Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy Thượng phương, thế giới Phật Thứ Đệ Xuất Hiện Vô Tận, đức Vô Biên Trí Tuệ Quang Viên Mãn Tràng Như Lai Đẳng chánh giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Pháp Giới Môn Tràng Vương Bồ-tát làm thượng thủ.
Lại thấy Hạ phương, thế giới Phật Quang Minh, đức Vô Vô Ngại Trí Tràng Như Lai Đẳng chánh giác, đạo tràng chúng hội vây quanh. Nhất Thiết Thế Gian Sát Tràng Vương Bồ-tát làm thượng thủ.
Thiện nam tử! Ta thấy mười phương như vậy. Mỗi phương đều mười Phật sát vi trần số Như Lai. Chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng chẳng qua đó.
Nếu ta muốn thấy thế giới An Lạc, đức A-di-đà Như Lai, thời tùy ý liền thấy.
Nếu ta muốn thấy Chiên đàn thế giới, Kim Cang Quang Minh Như Lai; Diệu Hương thế giới, Bảo Quang Minh Như Lai; Liên Hoa thế giới, Bảo Liên Hoa Quang Minh Như Lai; Diệu Kim thế giới, Tịch Tịnh Quang Như Lai; Diệu Hỷ thế giới, Bất Động Như Lai; Thiện Trụ thế giới, Sư Tử Như Lai; Cảnh Quang Minh thế giới, Nguyệt Giác Như Lai; Bảo Sư Tử Trang Nghiêm thế giới, Tỳ-lô-giá-na Như Lai; tất cả chư Như Lai như vậy đều tùy ý liền thấy.
Khi trưởng giả Giải Thoát nhập định thì được thân thanh tịnh, mười phương chư Phật hiển hiện trong thân, cho đến các quốc độ, các chúng hội, các đạo tràng đều hiện đầy đủ. Tại sao được thấy như vậy? Kinh Hoa Nghiêm lấy pháp giới làm tâm, pháp giới lấy tâm làm tâm, đi sâu vào pháp giới tức là đi sâu vào tâm, nhập định tức là nhập vào tự tâm. Khi tâm không còn vọng niệm dấy khởi, không còn phiền não che đậy, tâm ấy rỗng rang trùm khắp mười phương pháp giới, nhập định tức là nhập thể tâm trùm khắp mười phương, mười phương chư Phật cả pháp giới chúng sanh đều hiện đủ.
Nhưng chư Như Lai chẳng đến đây, ta cũng không qua đó.
Biết tất cả chư Phật cùng tâm của ta đều như mộng.
Tất cả chư Phật hiện thân nói pháp đều là báo thân và hóa thân, tùy duyên hiển hiện không thật, ngay nơi thân mình thấy cảnh đó cũng không thật. Khi thể nhập được tâm thanh tịnh nguyên minh thì thấy tất cả cảnh, tất cả tâm đều như mộng.
Biết tất cả chư Phật như ảnh tượng, còn tâm mình như nước.
Biết tất cả sắc tướng của chư Phật và tâm mình đều như huyễn. Biết tất cả Phật và tâm mình thảy đều như vang.
Ta biết như vậy, ức niệm như vậy, Chư Phật được thấy đều do tự tâm.
Tâm thanh tịnh thì chư Phật hiện, như trăng hiện đáy nước, nước và bóng trăng không hai, Phật trong tâm cũng như tâm hiện bóng Phật. Kinh Di-đà nói, người niệm Phật khi sắp lâm chung thấy Phật Di-đà đến tiếp dẫn. Có người đặt câu hỏi: Nếu có một ngàn người niệm Phật mà chết một lượt, Phật Di-đà chỉ có một thì làm sao tiếp dẫn hết được? Điều này có thể giải thích bằng câu “trì thành nguyệt hiện”, nghĩa là ao nước lóng trong có mặt trăng rọi xuống. Nếu có một ngàn ao nước trong thì cũng thấy một ngàn bóng trăng hiện. Mặt trăng không đến ao cũng như ao không đến trăng, tuy không đến nhưng hiển hiện khắp chốn. Đức Phật Di-đà không đi đến nhưng bao nhiêu người niệm Phật đều thấy ngài đến rước, lý ấy hiển nhiên.
Trưởng giả Giải Thoát nhập tam-muội, tâm thanh tịnh thì tất cả chư Phật đều hiển hiện, điều này không có gì lạ. Đôi khi người ta không hiểu, hỏi rằng niệm Phật thì về tịnh độ còn tu thiền về đâu? E rằng không có chỗ trở về. Chỉ sợ tâm mình không thanh tịnh, nếu tâm tịnh thì muốn đến cõi Phật nào cũng được. Như chiếc gương trong, muốn thấy sự vật phía trước thì xoay gương về phía trước, muốn thấy sự vật phía sau thì xoay gương về phía sau, chỉ cần hướng mặt gương về phía nào thì sự vật phía đó hiển hiện tự tại thấu suốt rõ ràng.
Tất cả pháp môn của Phật dạy không khác nhau, ban đầu làm cho tâm chúng ta thanh tịnh, khi tâm thanh tịnh không còn một mảy nhơ phiền não, không còn một chút loạn tưởng che đậy gọi là nhập chánh định, chư Phật hiện đủ trong tâm chúng ta. Tâm chúng ta và Phật không khác nhau. Khi tâm như nước trong thì thấy bóng Phật hiện. Chúng ta học Đại thừa thấy rõ đường lối tu, biết tất cả chư Phật như ảnh tượng, tâm mình như nước. Đã xác định chư Phật như bóng ảnh thì còn có gì là thật để chấp trước. Tất cả hình ảnh chất chứa trong tâm mình đều là bóng, dù có hiển hiện cũng không thật chỉ có tâm thanh tịnh mới là chân thật. Chúng ta thường vướng mắc bóng ảnh, bỏ quên tâm thanh tịnh của chính mình.
Biết chư Phật hiện trong tâm là bóng ảnh, chẳng khác tiếng vang, như trăng dưới nước. Câu nhắc nhở này rất quan trọng, để chúng ta không lầm chấp. Đôi khi ngồi thiền hay niệm Phật thấy Phật đến bên mình, cho đó là thật mừng rỡ liền sanh bệnh. Nhà thiền thường nhắc chúng ta bệnh lầm chấp này. Câu “Việc đến chẳng nhận, tất cả chỗ không tâm” nói lên chỗ thấy biết tất cả đều không thật, chỉ chú trọng tâm thanh tịnh.
Các vị thiền sư thường bảo, các ông đừng bị Phật tổ lừa. Phật tổ dạy chúng ta có sẵn đủ tánh chân thật, nhưng vì không hiểu chỗ chỉ dạy đó, nên ngài dùng phương tiện dạy quán cái này cái kia, tu pháp này pháp nọ, chúng ta ham thích thực hành theo nhưng đến chỗ cứu cánh đều phải bỏ hết. Như pháp tu Tứ thiền, từ Sơ thiền được ly dục sanh hỷ lạc, Nhị thiền được định sanh hỷ lạc, Tam thiền bỏ hỷ lạc của hai bậc trước để được diệu lạc, Tứ thiền thì buông bỏ tất cả chỉ còn thuần thanh tịnh. Nếu không buông bỏ để tiến thêm thì bị kẹt ở một chỗ. Tất cả pháp tu ban đầu của hàng Nhị thừa đều mượn hình tướng rồi dần dần đến cứu cánh nhập Diệt tận định bặt dứt các hình tướng, không còn quán tưởng. Đại thừa Thiền tông không mượn hình tướng mà đi thẳng vào chỗ chân thật, nên gọi là pháp tu đốn ngộ.
Thiện nam tử! Phải biết Bồ-tát tu những Phật pháp, tịnh những Phật độ, tích tập diệu hạnh, điều phục chúng sanh, phát đại thệ nguyện, nhập Nhất thiết trí, tự tại du hý bất tư nghì môn giải thoát, được Phật Bồ-đề, hiện đại thần thông, qua khắp tất cả mười phương pháp giới, dùng vi tế trí nhập khắp các kiếp, tất cả như vậy đều do tự tâm.
Thiện nam tử! Do đây nên phải dùng thiện pháp phò trợ tự tâm. Phải dùng pháp thủy thấm nhuần tự tâm. Phải ở cảnh giới trị sạch tự tâm. Phải dùng tinh tấn kiên cố tự tâm. Phải dùng nhẫn nhục san bằng tự tâm. Phải dùng trí chứng rửa sạch tự tâm. Phải dùng trí tuệ minh lợi tự tâm. Phải dùng Phật tự tại khai phát tự tâm. Phải dùng Phật bình đẳng quảng đại tự tâm. Phải dùng Phật thập lực chiếu xét tự tâm.
Tất cả các pháp bất tư nghì như trên đều từ nơi tâm lưu xuất. Bồ-tát đến địa vị này gọi là Cụ túc phương tiện trụ, nghĩa là trở về tâm thì đầy đủ phương tiện tu các Phật pháp, tịnh Phật độ, tích tập diệu hạnh… Vì thế chúng ta phải dùng thiện pháp phò trợ tâm mình, nếu không có thiện pháp giữ gìn thì tâm buông lung theo pháp ác. Thiện pháp tốt nhất là luôn luôn thấy biết tất cả hình tướng đều không thật như bóng như vang. Dùng pháp thủy thấm nhuần tự tâm, tinh tấn, nhẫn nhục, trí tuệ… là các pháp phòng hộ tâm. Tất cả đều xoay về nơi tâm, phát huy tánh giác sẵn có, được sức tự tại rộng lớn cho đến Thập lực của Phật chiếu soi tự tâm.
Thiện nam tử! Ta chỉ nhập xuất được môn giải thoát Như Lai vô ngại trang nghiêm này. Còn như chư đại Bồ-tát được vô ngại trí, trụ vô ngại hạnh, được tam-muội Thường thấy tất cả Phật, được tam-muội Chẳng trụ Niết-bàn tế, rõ thấu tam-muội Phổ môn cảnh giới. Với những pháp tam thế thảy đều bình đẳng. Hay khéo phân thân khắp tất cả cõi. An trụ nơi cảnh giới bình đẳng của chư Phật. Cảnh giới mười phương đều hiện tiền. Trí tuệ quán sát đều thấy biết rõ ràng tất cả. Ở trong thân mình đều hiện tất cả thế giới thành hoại, nhưng đối với thân mình và các thế giới không có tưởng nghĩ là hai. Những diệu hạnh như vậy, làm sao ta biết hết được, nói hết được.
Này Thiện nam tử! Từ đây qua phương Nam đến bờ Diêm-phù-đề, có một nước tên là Ma-lợi-già-la. Nước đó có Tỳ-kheo tên là Hải Tràng. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo?
Trưởng giả Giải Thoát khen ngợi hạnh thù thắng của chư Bồ-tát, giới thiệu vị thiện tri thức tiếp theo để Thiện Tài đến tham học.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Giải Thoát trưởng giả, hữu nhiễu quán sát xưng dương ca ngợi, tư duy chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ, nhất tâm ghi nhớ y tựa thiện tri thức, thờ thiện tri thức, kính thiện tri thức, do thiện tri thức được thấy Nhất thiết trí. Với thiện tri thức chẳng có lòng chống trái, không dua dối. Với thiện trí thức tâm thường tùy thuận. Nơi thiện tri thức tưởng là từ mẫu, vì bỏ rời tất cả pháp vô ích. Nơi thiện tri thức tưởng là từ phụ, vì xuất sanh tất cả pháp lành. Tư duy rồi, từ tạ mà đi.
Thiện Tài đồng tử nhất tâm chánh niệm lời dạy của Giải Thoát trưởng giả, quán sát lời dạy của Trưởng giả. Ghi nhớ môn bất tư nghì Bồ-tát Giải Thoát của Trưởng giả. Tư duy bất tư nghì Bồ-tát trí quang minh của Trưởng giả. Thâm nhập bất tư nghì pháp giới môn của Trưởng giả. Xu hướng bất tư nghì Bồ-tát phổ nhập môn của Trưởng giả. Thấy rõ bất tư nghì Như Lai thần biến của Trưởng giả. Hiểu rõ bất tư nghì phổ nhập Phật độ của Trưởng giả. Phân biệt bất tư nghì Phật lực trang nghiêm của trưởng giả. Suy gẫm bất tư nghì Bồ-tát tam-muội giải thoát cảnh giới phần vị của Trưởng giả. Rõ thấu bất tư nghì thế giới sai biệt cứu cánh vô ngại của Trưởng giả. Tu hành bất tư nghì Bồ-tát kiên cố thâm tâm của Trưởng giả. Phát khởi bất tư nghì Bồ-tát đại nguyện nghiệp của Trưởng giả.
Đoạn trước Tỳ-kheo Thiện Trụ giới thiệu cư sĩ Di-già, đến đây trưởng giả Giải Thoát giới thiệu Tỳ-kheo Hải Tràng, để thấy sự dung nhiếp giữa tăng và tục. Sau khi từ giã trưởng giả Giải Thoát, Thiện Tài hữu nhiễu buồn khóc rơi lệ, tư duy quán sát áp dụng pháp tu của thiện tri thức vừa chỉ dạy, do tư duy quán sát nên được thâm nhập pháp môn Vô ngại trang nghiêm giải thoát.
Thiện Tài đồng tử đi lần qua phương Nam đến bờ Diêm-phù đề, nước Ma-lợi, tìm Tỳ-kheo Hải Tràng. Bèn thấy Tỳ-kheo Hải Tràng ngồi kiết già ở bên chỗ đi kinh hành, đang nhập tam-muội, bặt hơi thở, lìa tư giác, thân tâm bất động.
Đến đây tượng trưng cho bậc thứ sáu trong Thập trụ, Chánh tâm trụ. Chánh tâm trụ nặng về phần trí tuệ, nên vị thiện tri thức là Tỳ-kheo, còn về phương tiện giáo hóa thì có các vị cư sĩ hoặc trưởng giả. Tên của ngài là Hải Tràng, nghĩa là đạo tràng rộng mênh mông như biển. Khi Thiện Tài đến thấy ngài đang nhập định, từ nơi thân của ngài xuất hiện tất cả vạn loại, nói lên ý nghĩa toàn thân trùm pháp giới, rộng như biển.
Từ dưới chân của Tỳ-kheo ấy hiện ra vô số muôn ngàn ức trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn. Đại chúng này đều dùng nhiều đồ trang nghiêm để nghiêm sức thân mình. Tất cả đều đội bảo quan, đeo minh châu, qua khắp tất cả thế giới mười phương mưa tất cả châu bảo, tất cả chuỗi ngọc, tất cả y phục, tất cả đồ uống ăn thượng vị đúng pháp, tất cả hoa, tất cả tràng hoa, tất cả hương, tất cả hương thoa, tất cả đồ cần thiết theo sở thích. Ở tất cả chỗ cứu nhiếp những chúng sanh nghèo cùng, an ủi những chúng sanh khổ não, đều làm cho hoan hỷ. Tâm ý thanh tịnh. Thành tựu đạo vô thượng Bồ-đề.
Các chúng sanh tuần tự xuất hiện khắp thân của Tỳ-kheo Hải Tràng. Trước tiên có các trưởng giả, cư sĩ, Bà-la-môn. Các vị này là người phàm nên thích đồ trang sức tốt đẹp, dùng đồ trang nghiêm thân như gìn giữ định tuệ, không phải để chưng diện phô trương. Tất cả trưởng giả cư sĩ ấy đều biết nhiếp hóa chúng sanh, an ủi những chúng sanh khổ não, tâm ý thanh tịnh thành tựu Bồ-đề. Đây là biểu trưng tánh giác hiện từ nơi chân của ngài.
Từ hai gối của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện trăm ngàn ức Sát-để-lợi, Bà-la-môn. Đại chúng này đều thông tuệ, nhiều sắc tướng, nhiều hình mạo, nhiều y phục thượng diệu trang nghiêm, cùng khắp tất cả thế giới mười phương, dùng ái ngữ và đồng sự nhiếp các chúng sanh. Những là làm cho người nghèo được đầy đủ, người bệnh được lành, người nguy được an, người kinh sợ được y tựa, người ưu sầu được sung sướng. Lại dùng phương tiện để khuyến dụ họ, làm cho họ đều bỏ ác làm lành.
Tại sao các hàng Sát-đế-lợi, Bà-la-môn xuất hiện từ đầu gối? Đầu gối là chỗ co vào duỗi ra, nên đây tượng trưng bằng dòng dõi vua chúa, các vị này dùng sức tam-muội và trí Bát-nhã nhiếp phục chúng sanh. Trong Tứ nhiếp pháp, dùng ái ngữ và đồng sự nhiếp hóa thương người nghèo, người bệnh, khiến họ biết bỏ ác làm lành. Đó là công hạnh Bồ-tát biểu hiện từ đầu gối của Tỳ-kheo Hải Tràng.
Từ khoảng eo lưng của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện vô lượng vô số tiên nhân. Hoặc mặc y phục bằng cỏ, bằng vỏ cây. Đều cầm bình rửa, oai nghi tịch tịnh, du hành thế giới mười phương. Ở trên hư không, dùng diệu âm ca ngợi Như Lai. Diễn thuyết các pháp: hoặc diễn thuyết đạo thanh tịnh phạm hạnh, làm cho họ tu tập điều phục các căn tánh. Hoặc nói các pháp đều không tự tánh, cho họ quán sát phát sanh trí tuệ. Hoặc nói pháp tắc ngôn luận thế gian. Hoặc lại khai thị Nhất thiết trí phương tiện xuất yếu, làm cho họ theo thứ đệ đều tu tập hạnh nghiệp của riêng mình.
Từ eo lưng của ngài xuất hiện các vị tiên, các vị này tu hạnh kham khổ mặc y phục bằng cỏ, bằng vỏ cây. Cầm bình rửa tượng trưng oai nghi của hạnh đầu đà, cũng tượng trưng rửa sạch cấu uế. Các vị thuyết pháp về hạnh thanh tịnh, điều phục các căn tánh chúng sanh… Ý chỉ rằng khi Bồ-tát nhập chánh định, khi chứng Bát-nhã thì chuyển tất cả những tham dục thành thanh tịnh, nên hiện thân các vị tiên nhân mặc áo vỏ cây mà oai nghi tịch tịnh.
Từ hai bên hông của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện bất tư nghì long, bất tư nghì long nữ, thị hiện bất tư nghì thần biến của chư long. Những là mưa những mây hương thơm, mây hoa, mây tràng hoa, mây bảo cái, mây bảo phan, mây diệu bảo trang nghiêm, mây như ý bảo, mây bảo anh lạc, mây bảo tọa, mây bảo cung điện, mây bảo liên hoa, mây bảo quan, mây thiên thân, mây thể nữ, tất cả đều bất tư nghì khắp hư không để trang nghiêm. Sung mãn chư Phật đạo tràng tất cả thế giới mười phương để cúng dường, làm cho các chúng sanh đều hoan hỷ.
Loài rồng thường làm mây mưa. Đây thị hiện các long nam, long nữ xuất hiện từ hai bên hông, tượng trưng hai tánh từ bi và trí tuệ. Dùng hai tánh song hành để trang nghiêm Phật độ, lợi ích chúng sanh.
Từ tướng chữ “vạn” trước ngực xuất hiện vô số trăm ngàn ức a-tu-la vương, thảy đều thị hiện bất tư nghì huyễn lực tự tại, làm chấn động cả trăm thế giới. Tất cả nước biển tự nhiên sôi trào. Tất cả Sơn vương tự nhiên xung kích. Chư Thiên cung điện đều lay động. Quang minh của chư ma đều bị che khuất. Chúng ma quân đều bị xô dẹp. Khiến khắp chúng sanh bỏ tâm kiêu mạn, trừ tâm sân hại, phá núi phiền não, dứt các pháp ác, thêm lớn pháp vô tránh, hằng hòa lành nhau. Lại dùng huyễn lực khai ngộ chúng sanh, làm cho họ diệt tội ác, sợ sanh tử, khỏi các loài, lìa nhiễm trước. Khiến họ an trụ tâm vô thượng Bồ-đề, khiến họ tu tất cả hạnh Bồ-tát, khiến mạnh các môn ba-la-mật, khiến nhập tất cả bậc Bồ-tát, khiến quán sát tất cả pháp môn vi diệu, khiến biết tất cả phương tiện của chư Phật. Những việc làm trên đây cùng khắp pháp giới.
Chữ “vạn” trước ngực là một tướng tốt, là đại nhân tướng, biểu thị sức mạnh hàng phục chúng sanh. Vì thế từ tướng chữ “vạn” trước ngực xuất hiện vô số trăm ngàn ức a-tu-la có huyễn lực bất tư nghì, làm rúng động cả thế giới, làm nước biển sôi trào. Tất cả những sức mạnh phi thường đó không phải do sự nóng nảy hung dữ của a-tu-la mà để tạo sự chấn động cho chư thiên ma quân, khiến chúng sanh bỏ tâm kiêu mạn, trừ tâm sân hận. Sức mạnh của a-tu-la khai ngộ chúng sanh, khiến họ an trụ tâm vương, khiến họ tu tâm hạnh của tất cả Bồ-tát, khiến mạnh các môn Ba-la-mật, khiến nhập tất cả bậc Bồ-tát… Tức là dùng sức mạnh cảm hóa chúng sanh bỏ đường ác về đường lành.
Từ trên lưng của Tỳ-kheo Hải Tràng, vì người đáng dùng Nhị thừa để độ, xuất hiện vô số trăm ngàn ức Thanh văn và Độc giác. Vì người chấp ngã mà nói pháp vô ngã. Vì người chấp thường mà nói tất cả hành pháp đều vô thường. Vì người tham mà nói bất tịnh quán. Vì người sân mà nói từ tâm quán. Vì người si mà nói duyên khởi quán. Vì người đẳng phần phiền não mà nói cảnh giới pháp cùng trí tuệ tương ưng. Vì người mến thích cảnh giới mà nói pháp vô sở hữu. Vì người mến thích chỗ tịch tịnh mà nói pháp phát thệ nguyện lớn khắp lợi ích tất cả chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.
Hai bên lưng của ngài, một bên xuất hiện Thanh văn, một bên xuất hiện Độc giác. Dùng pháp Thanh văn Độc giác giáo hóa chúng sanh, pháp đó chưa phải là cứu cánh, nên dụ cho hai bên. Pháp cứu cánh là thẳng đến chỗ rốt ráo thành Phật.
Từ hai vai của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện vô số trăm ngàn ức dạ xoa vương, la-sát vương, những hình mạo, những sắc tướng, hoặc cao hoặc thấp đều đáng kinh sợ. Vô lượng quyến thuộc vây quanh. Chư vương này thủ hộ tất cả chúng sanh làm lành và các hiền thánh chúng hội Bồ-tát, người hướng chánh trụ và người chánh trụ. Hoặc hiện làm thần Chấp Kim Cang thủ hộ chư Phật và chỗ chư Phật ngự. Hoặc khắp thủ hộ thế gian, làm cho người hãi sợ được an ổn. Người tật bệnh được lành. Người khổ não được hết khổ. Người có lỗi lầm thời ăn năn. Người bị tai nạn thời khỏi nạn. Lợi ích tất cả chúng sanh như vậy đều làm cho họ bỏ sanh tử luân mà chuyển chánh pháp luân.
Các dạ-xoa vương và la-sát vương xuất hiện từ hai bên vai của ngài Hải Tràng, hai chúng dạ-xoa, la-sát này có sức mạnh biến hóa đảm đang bảo vệ Phật pháp, tượng trưng cho sự gánh vác. Nghĩa là khi thể nhập tâm chân thật liền được tướng dụng, sử dụng trí tuệ Bát-nhã quán chiếu chuyển tất cả tâm dạ-xoa, la-sát trở thành các vị thần ủng hộ Phật pháp đắc lực.
Từ nơi bụng của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện trăm ngàn ức khẩn-na-la vương, đều có vô số khẩn-na-la nữ trước sau vây quanh. Lại xuất hiện vô số còn thát bà vương, đều có vô số càn thát-bà nữ trước sau vây quanh. Đều trổi vô số trăm ngàn thiên nhạc ca ngâm tán thán những pháp bảo tánh. Ca ngâm tán thán chư Phật Bảo. Ca ngâm tán thán phát Bồ-đề tâm. Ca ngâm tán thán tu Bồ-tát hạnh. Ca ngâm tán thán môn thành Đẳng chánh giác của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn chuyển pháp luân của tất cả chư Phật. Ca ngâm tán thán môn hiện thần biến của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn nhập Niết-bàn của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn thủ hộ giáo pháp của tất cả chư Phật. Khai thị diễn thuyết môn làm cho tất cả chúng sanh đều hoan hỷ. Khai thị diễn thuyết môn nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Khai thị diễn thuyết môn hiển bày tất cả pháp vi diệu. Khai thị diễn thuyết môn bỏ lìa tất cả chướng ngại. Khai thị diễn thuyết môn phát sanh tất cả thiện căn. Tất cả như vậy đều cùng khắp thế giới mười phương.
Khẩn-na-la và càn-thát-bà là những vị nhạc thần thường ca múa tấu nhạc cho trời Đế-thích. Các vị này xuất hiện từ nơi bụng của ngài Hải Tràng là tượng trưng cho tấm lòng từ bi. Chúng ta thường nghe nói lòng từ bi, lòng thương người, nói lên sự thể hiện từ bi nơi tấm lòng. Đây không phải chỉ một bề từ bi mà phải có trí tuệ. Nhạc thần ca ngâm tán thán Phật pháp, Bồ-tát hạnh, môn thành Đẳng chánh giác, môn chuyển pháp luân. Tấu nhạc làm vui lòng chúng sanh, đồng thời hướng mọi người về chánh pháp. Đó là hai mặt từ bi trí tuệ song hành.
Từ trên mặt của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện vô số trăm ngàn ức Chuyển luân thánh vương, thất bảo đầy đủ, bốn đội binh vây quanh, phóng ánh sáng đại xả, mưa vô lượng bảo làm cho người nghèo thiếu đều được no đủ và làm cho họ bỏ hẳn sự trộm cắp. Thể nữ xinh đẹp vô số trăm ngàn đều đem xả thí không tiếc, làm cho họ bỏ hẳn sự tà dâm; làm cho họ sanh lòng từ chẳng giết hại; làm cho họ rốt ráo thường nói lời chân thật, chẳng dối phỉnh, chẳng luận đàm vô ích; làm cho họ nói lời hòa giải vui thuận chẳng làm sự ly gián; làm cho họ nói lời dịu dàng không có thô ác; làm cho họ thường diễn thuyết những nghĩa thậm thâm nhất định minh liễu, chẳng nói lời vô nghĩa trau chuốt. Vì họ mà nói thiểu dục cho họ trừ tham ái lòng không nhơ bợn. Vì họ mà nói đại bi cho họ trừ sân hận tâm ý được thanh tịnh. Vì họ mà nói thật nghĩa khiến họ quán sát tất cả pháp, thâm nhập nhân duyên, khéo rõ đế lý, nhổ gai tà kiến, phá núi nghi hoặc, trừ diệt tất cả chướng ngại. Những việc làm như vậy đều đầy khắp pháp giới.
Chuyển luân thánh vương là vua thánh, vua sáng, vua hiền, đem pháp thập thiện dạy chúng sanh, cai trị chúng sanh bằng pháp thập thiện. Nên đây nói đem của báu bố thí cho người nghèo để họ không trộm cắp, đem thể nữ xinh đẹp bố thí cho chúng sanh để họ không khởi niệm tà dâm, làm cho họ sanh lòng từ không giết hại, làm cho họ rốt ráo nói lời chân thật… Tất cả chư Phật chư Bồ-tát chư hiền thánh đều lấy pháp thập thiện làm gốc, Trên mặt là chỗ chánh yếu nên từ mặt hiện ra các vị Chuyển luân thánh vương.
Từ hai mắt của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện vô số trăm ngàn ức nhật luân chiếu khắp tất cả những đại địa ngục và những ác thú, đều làm cho họ khỏi khổ. Lại chiếu chặng giữa tất cả thế giới để trừ tăm tối. Lại chiếu chúng sanh mười phương đều làm cho họ bỏ lìa ngu si ế chướng. Nơi quốc độ cấu trược phóng thanh tịnh quang. Cõi nước bạch ngân phóng ánh sáng màu huỳnh kim. Nơi cõi nước huỳnh kim phóng ánh sáng màu bạch ngân. Nơi cõi nước lưu ly phóng ánh sáng màu pha lê. Cõi nước pha lê phóng ánh sáng màu lưu ly. Cõi nước xa cừ phóng ánh sáng màu mã não. Cõi nước mã não phóng ánh sáng màu xa cừ. Cõi nước đế thanh phóng ánh sáng màu nhật tạng ma-ni vương. Cõi nước nhật tạng ma-ni vương phóng ánh sáng màu đế thanh. Cõi nước xích chân châu phóng ánh sáng nguyệt quang võng tạng ma-ni vương. Cõi nước nguyệt quang võng tạng ma-ni vương phóng ánh sáng màu xích chân châu. Cõi nước một thứ bảo làm thành phóng ánh sáng màu nhiều thứ báu. Cõi nước nhiều thứ báu làm thành phóng ánh sáng màu một thứ báu. Những ánh sáng này chiếu đến tâm rừng rậm của chúng sanh, làm xong vô lượng sự nghiệp của chúng sanh, nghiêm sức tất cả cảnh giới thế gian, làm cho các chúng sanh tâm được mát mẻ rất hoan hỷ. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.
Từ trong tướng bạch hào giữa chặng mày của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện vô số trăm ngàn ức Đế-thích đều tự tại nơi cảnh giới, trên đảnh có ma-ni bảo châu chiếu sáng tất cả các Thiên cung điện. Chấn động tất cả Tu-di sơn vương, giác ngộ tất cả chư thiên chúng, khen sức phước đức, nói sức trí tuệ, sức sanh báo vui, sức trì chí, sức tịnh niệm, sức bền tâm Bồ-đề đã phát, khen thích thấy Phật khiến trừ ham muốn thế gian, khen thích nghe pháp khiến nhàm cảnh thế gian, khen thích quán trí khiến tuyệt thế nhiễm, ngăn chiến trận của a-tu-la, dứt phiền não đấu tranh, diệt tâm sợ chết, phát nguyện hàng ma, hưng lập chánh pháp, thành xong tất cả sự nghiệp của chúng sanh. Những việc làm như vậy cùng khắp pháp giới.
Từ trên trán của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện vô số trăm ngàn ức Phạm thiên sắc tướng đoan nghiêm thế gian không sánh kịp oai nghi tịch tịnh, lời nói hay diệu, khuyên Phật thuyết pháp, khen Phật công đức làm cho các Bồ-tát đều hoan hỷ, có thể làm xong vô lượng sự nghiệp cho chúng sanh, cùng khắp tất cả thế giới mười phương.
Thập thiện là nhân đưa đến kết quả sanh lên cõi trời Đế-thích Tự Tại. Oai lực chấn động núi Tu-di, giác ngộ chư thiên… cho đến thành xong sự nghiệp của chúng sanh.
Từ mặt lên chân mày đến trán theo kinh điển Vệ-đà của Bà-la-môn giáo là nơi xuất sanh của chư thiên, trời Đế-thích, trời Đại Phạm, Thuận theo lòng tin ấy mà hiển hiện các hình ảnh của các vua trời, tuy nhiên tất cả đều hướng về Phật pháp,
Theo nhà Phật, sanh lên Phạm thiên là do nhân tu tứ vô lượng tâm, từ, bi, hỷ, xả, Tứ vô lượng tâm là pháp cao quý vượt hơn thập thiện nên Phạm thiên xuất hiện trên trán.
Từ trên đầu của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện vô lượng Phật sát vi trần số chư Bồ-tát đều dùng tướng hảo trang nghiêm nơi thân, phóng vô biên quang nói các công hạnh. Những là tán thán bố thí khiến bỏ xan tham được các diệu bảo trang nghiêm thế giới, xưng dương công đức trì giới khiến các chúng sanh dứt hẳn những điều ác mà an trụ nơi giới đại từ bi của Bồ-tát. Nói tất cả pháp hữu vi thảy đều như mộng, nói những dục lạc không có tư vị khiến các chúng sanh rời sự ràng buộc của phiền não. Nói sức nhẫn nhục khiến các pháp tâm được tự tại. Khen thân kim sắc khiến các chúng sanh lìa như sân hận, khởi hạnh đối trị tuyệt đường súc sanh. Khen hạnh tinh tấn khiến họ xa lìa thế gian phóng dật, đều siêng tu vô lượng diệu pháp. Lại tán thán Thiền ba-la-mật khiến tất cả tâm được tự tại. Lại diễn thuyết Bát-nhã ba-la-mật khai thị chánh kiến, khiến các chúng sanh thích trí tự tại trừ những kiến chấp. Lại diễn thuyết những việc làm tùy thuận thế gian, khiến các chúng sanh dầu lìa sanh tử mà ở nơi các loài tự tại thọ sanh. Lại hiện thần thông biến hóa nói thọ mạng tự tại, khiến các chúng sanh phát đại thệ nguyện. Lại diễn thuyết thành tựu sức tổng trì, xuất sanh sức đại nguyện, sức tịnh trị tam-muội, sức tự tại thọ sanh. Lại diễn thuyết các thứ trí như là trí biết khắp căn tánh của các chúng sanh, trí biết khắp tất cả tâm hành, trí biết khắp Như Lai thập lực, trí biết khắp chư Phật tự tại, những sự như vậy cùng khắp pháp giới.
Từ trên đảnh của Tỳ-kheo Hải Tràng xuất hiện vô số trăm ngàn ức thân Như Lai. Thân đó không ai bằng, đủ các tướng hảo thanh tịnh trang nghiêm, oai quang rực rỡ như tòa núi vàng vô lượng quang minh chiếu khắp mười phương, pháp diệu âm thanh sung mãn pháp giới, thị hiện vô lượng sức thần thông. Vì tất cả thế gian mà mưa pháp vũ. Vì chư Bồ-tát ngồi Bồ-đề đạo tràng mà mưa pháp vũ bình đẳng biết khắp. Vì chư Bồ-tát ở ngôi quán đảnh mà mưa pháp vũ nhập phổ môn. Vì chư Bồ-tát Pháp vương tử vị mà mưa pháp vũ phổ trang nghiêm. Vì chư Bồ-tát đồng tử vị mà mưa pháp vũ kiên cố sơn. Vì chư Bồ-tát bất thối vị mà mưa pháp vũ hải tạng. Vì chư Bồ-tát thành tựu chánh tâm vị mà mưa pháp vũ phổ cảnh giới. Vì chư Bồ-tát phương tiện cụ túc vị mà mưa pháp vũ tự tánh môn. Vì chư Bồ-tát sanh quý vị mà mưa pháp vũ tùy thuận thế gian. Vì chư Bồ-tát tu hành vị mà mưa pháp vũ khắp bị mẫn. Vì chư Bồ-tát tân học mà mưa pháp vũ tích tập tạng. Vì chư Bồ-tát sơ phát tâm mà mưa pháp vũ nhiếp chúng sanh. Vì chư Bồ-tát tín giải mà mưa pháp vũ vô tận cảnh giới khắp hiện tiền. Vì Sắc giới các chúng sanh mà mưa pháp vũ phổ môn. Vì chư Phạm thiên mà mưa pháp vũ sanh lực. Vì chư ma chúng mà mưa pháp vũ tâm tràng. Vì chư thiên Hóa Lạc mà mưa pháp vũ tịnh niệm. Vì chư thiên Đâu suất mà mưa pháp vũ sanh ý. Vì chư thiên Dạ ma mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư thiên Đao-lợi mà mưa pháp vũ mau trang nghiêm cõi hư không. Vì chư dạ xoa vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ. Vì chư càn thát-bà vương mà mưa pháp vũ kim cang luân. Vì chư a-tu-la vương mà mưa pháp vũ đại cảnh giới. Vì chư ca lâu la vương mà mưa pháp vũ vô biện quang minh. Vì chư khẩn-na-la vương mà mưa pháp vũ tất cả thế gian trí thù thắng. Vì chư nhân vương mà mưa pháp vũ không say đắm. Vì chư long vương mà mưa pháp vũ hoan hỷ tràng. Vì chư ma-hầu-la-già vương mà mưa pháp vũ bất hưu tức. Vì các chúng sanh địa ngục mà mưa pháp vũ chánh niệm trang nghiêm. Vì các súc sanh mà mưa pháp vũ trí tuệ tạng. Vì các chúng sanh cõi Diêm-la vương mà mưa pháp vũ vô úy. Vì các chúng sanh ở xứ ách nạn mà mưa pháp vũ phổ an ủi. Đều làm cho tất cả chúng sanh được vào chúng hội hiền thánh. Những sự như vậy sung mãn pháp giới.
Trên đảnh là chỗ cao quý nhất, Phật là bậc tôn quý trong loài người nên chư Như Lai xuất hiện trên đảnh của Tỳ-kheo Hải Tràng. Như vậy toàn thân của ngài sau khi nhập chánh định tu pháp quán Phổ Nhãn, tứ thánh lục phàm đều hiện đầy đủ. Tất cả hình ảnh thị hiện đều nói pháp làm lợi ích chúng sanh.
Lại nơi tất cả lỗ lông trên thân của Tỳ-kheo Hải Tràng, mỗi mỗi đều phóng ra vô số Phật sát vi trần số quang minh võng. Mỗi mỗi quang minh võng đủ vô số sắc tướng, vô số trang nghiêm, vô số cảnh giới, vô số sự nghiệp, sung mãn tất cả thế giới mười phương.
Ngài Hải Tràng tu pháp môn Bát-nhã tức là pháp môn trí tuệ nên toàn thân đều phát ra vô lượng ánh sáng tượng trưng cho trí tuệ viên mãn trùm khắp. Tất cả lỗ chân lông của ngài phát ra vô số ánh sáng nhiều như số vi trần cõi Phật, mỗi ánh sáng đan xen vào nhau như mạng lưới nên gọi là quang minh võng. Hình ảnh này biểu trưng cho trí tuệ viên mãn soi khắp tất cả thế giới, vô số chúng sanh, vô số sự nghiệp đều sung mãn.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử nhất tâm quán sát Tỳ-kheo Hải Tràng lòng rất khát ngưỡng. Ghi nhớ tam-muội giải thoát của Tỳ-kheo. Tư duy bất tư nghì Bồ-tát tam-muội của Tỳ-kheo. Tư duy bất tư nghì phương tiện lợi ích chúng sanh của Tỳ-kheo. Tư duy bất tư nghì vô tác dụng phổ trang nghiêm môn của Tỳ-kheo. Tư duy trí thanh tịnh trang nghiêm pháp giới của Tỳ-kheo. Tư duy trí thọ Phật gia trì của Tỳ-kheo. Tư duy sức tự tại xuất sanh Bồ-tát của Tỳ-kheo. Tư duy sức đại nguyện kiên cố Bồ-tát của Tỳ-kheo. Tư duy sức thêm rộng Bồ-tát hạnh của Tỳ-kheo Hải Tràng.
Thiện Tài đồng tử đứng tư duy quán sát như vậy qua một ngày một đêm, nhẫn đến bảy ngày đêm, nửa tháng, một tháng, đến sáu tháng, lại qua sáu ngày nữa Tỳ-kheo Hải Tràng mới xuất tam-muội.
Đây lấy số sáu làm chỗ y cứ, vì Bát-nhã thuộc về độ thứ sáu. Ngài Tỳ-kheo Hải Tràng nhập Bát-nhã tam-muội, tức là đầy đủ sáu độ trong đó. Ngài dùng lục độ để trang nghiêm, nên đây biểu thị bằng hình ảnh Thiện Tài tư duy quán sát trải qua sáu tháng, sáu ngày, mới thấy ngài xuất định.
Thiện Tài đồng tử khen rằng: Bạch đức Thánh Hy hữu kỳ đặc, tam-muội như thế rất là sâu xa, tam-muội như vậy rất là quảng đại,tam-muội như vậy cảnh giới vô lượng, tam-muội như vậy thần lực khó nghĩ, tam-muội như vậy quang minh không gì bằng, tam-muội như vậy trang nghiêm vô số, tam-muội như vậy oai lực khó chế ngự, tam-muội như vậy cảnh giới bình đẳng, tam-muội như vậy chiếu khắp mười phương, tam-muội như vậy lợi ích vô hạn, vì có thể trừ diệt vô lượng khổ cho tất cả chúng sanh. Như là làm cho tất cả chúng sanh lìa khổ do tham, khỏi khổ địa ngục, súc sanh, đóng cửa ách nạn, mở đường nhân thiên, làm cho nhân thiên hoan hỷ. Làm cho họ thích thiền cảnh giới. Có thể làm cho tăng trưởng sự vui hữu vi. Có thể vì họ mà hiển bày sự vui giải thoát. Có thể vì họ dẫn phát tâm Bồ-đề. Có thể khiến tăng trưởng hạnh phước trí. Có thể khiến tăng trưởng tâm đại bi. Có thể làm cho sanh khởi sức đại nguyện. Có thể làm cho minh liễu đạo Bồ-tát, Có thể làm cho trang nghiêm trí cứu cánh. Có thể làm cho xu nhập cảnh Đại thừa. Có thể làm cho chiếu liễu hạnh Phổ Hiền. Có thể làm cho chứng được trí quang minh của các bậc Bồ-tát. Có thể làm cho thành tựu các hạnh nguyện của tất cả Bồ-tát, Có thể làm cho an trụ trong cảnh giới Nhất thiết chủng trí.
Bạch đức Thánh! Tam-muội này tên là gì?
Tỳ-kheo Hải Tràng nói: Này Thiện nam tử! Tam-muội đây tên là “Phổ nhãn xả đắc”.
Lại tên là “Bát-nhã ba-la-mật cảnh giới thanh tịnh quang minh”. Lại gọi là “Phổ trang nghiêm thanh tịnh môn”.
Này Thiện nam tử! Ta do tu tập Bát-nhã ba-la-mật nên được tam muội phổ trang nghiêm thanh tịnh này và trăm vạn vô số tam-muội.
Phổ nhãn là con mắt nhìn khắp. Tại sao nhìn được khắp? Do xả mà được, tức là nhờ buông bỏ tất cả nên được trí tuệ rộng lớn soi thấu mười phương. Kinh Kim Cang nói “Bất ưng trụ sắc sanh tâm, bất ưng trụ thanh hương vị xúc pháp sanh tâm, ưng vô sở trụ nhi sanh kỳ tâm”, vô sở trụ tức là không có chỗ dính mắc, nhờ không dính mắc một pháp nào nên được phổ nhãn. Phổ nhãn cũng là Bát-nhã ba-la-mật cảnh giới thanh tịnh trang nghiêm.
Ngài xác nhận chính tự thân tu pháp môn Bát-nhã, được chứng Chánh tâm trụ, vị trí thứ sáu trong thập trụ. Mỗi vị thiện tri thức đều có sự bố trí theo quả vị tu hành đầy đủ, dẫn đạo cho Thiện Tài từ thấp lên cao.
Thiện Tài đồng tử thưa: Bạch đức Thánh: Cảnh giới rốt ráo của tam-muội này chỉ như vậy thôi ư?
Tỳ-kheo Hải Tràng nói: Này Thiện nam tử! Lúc nhập tam-muội này, thời rõ biết tất cả thế giới không chướng ngại. Qua đến tất cả thế giới không chướng ngại. Vượt qua tất cả thế giới không chướng ngại. Trang nghiêm tất cả thế giới không chướng ngại. Tu trị tất cả thế giới không chướng ngại. Nghiêm tịnh tất cả thế giới không chướng ngại. Thấy tất cả Phật không chướng ngại. Quán tất cả chư Phật oai đức quảng đại không chướng ngại. Biết tất cả chư Phật thần lực tự tại không chướng ngại. Chứng tất cả chư Phật quảng đại lực không chướng ngại. Nhập tất cả chư Phật những công đức hải không chướng ngại. Thọ tất cả chư Phật vô lượng diệu pháp không chướng ngại. Nhập trong tất cả Phật pháp tu tập diệu hạnh không chướng ngại. Chứng trí tất cả chư Phật chuyển pháp luân bình đẳng không chướng ngại. Nhập tất cả chư Phật chúng hội đạo tràng không chướng ngại. Quán Phật pháp mười phương không chướng ngại. Đại bi nhiếp thọ chúng sanh mười phương không chướng ngại. Thường khởi đại từ sung mãn mười phương không chướng ngại. Thấy thập phương chư Phật lòng không nhàm đủ, không chướng ngại. Nhập tất cả chúng sanh hải không chướng ngại. Biết căn tánh hải của tất cả chúng sanh không chướng ngại. Biết những căn Sai biệt trí của tất cả chúng sanh không chướng ngại.
Không chỗ trụ nên tất cả đều không chướng ngại, được không chỗ trụ là do trí tuệ Bát-nhã quán chiếu, thấy mười phương thế giới đều thanh tịnh trang nghiêm Tâm không chỗ trụ nên nhìn thấu suốt tất cả cảnh giới không ngăn ngại. Ngài giải thích chỗ tu chứng của mình, khuyến khích Thiện Tài nên tiến bước cầu đạo học hỏi thêm.
Này Thiện nam tử. Ta chỉ biết một Bát-nhã ba-la-mật tam-muội quang minh này. Còn như chư Bồ-tát nhập trí tuệ hải, tịnh pháp giới cảnh, đạt tất cả thú, khắp vô lượng cõi, tổng trì tự tại, tam-muội thanh tịnh, thần thông quảng đại, biện tài vô tận, khéo nói các địa, làm chỗ nương cho chúng sanh, ta làm sao biết được những diệu hạnh đó, biện được công đức đó, rõ được chỗ làm đó, tỏ được cảnh giới đó, tột được nguyện lực đó, nhập được yếu môn đó, đạt được sở chứng đó, nói được đạo phần đó, trụ được tam-muội đó, thấy được tâm cảnh đó, chứng được bao nhiêu trí tuệ bình đẳng đó.
Này Thiện nam tử! Từ đây qua phương Nam có một xứ tên là Hải Triều. Xứ đó có khu viên lâm tên là Phổ Trang Nghiêm. Trong viên lâm đó có ưu-bà di tên là Hưu Xả. Ngươi đến đó hỏi ưu-bà-di Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh? Thế nào tu Bồ-tát đạo?
Chúng ta thấy rõ hai vị thiện tri thức. Vị trước tu thiền định, vị này tu về Bát-nhã. Thiền định và Bát-nhã là hai công dụng tối thắng nên cảnh tượng tối thắng của hai vị rất nhiều, diệu dụng của các ngài không thể lường được. Nhất là diệu dụng của Bát-nhã bất khả tư nghì, cả mười pháp giới tứ thánh và lục phàm đều hiện đầy đủ nơi thân ngài, không thừa không sót, tất cả những cảnh giới ấy đều không chướng ngại.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử ở chỗ Tỳ-kheo Hải Tràng được thân kiên cố, được của báu diệu pháp, nhập thâm cảnh giới, trí tuệ sáng suốt, tam-muội chiếu sáng, trụ thanh tịnh giải, thấy pháp thậm thâm, tâm an trụ trong các môn thanh tịnh, trí tuệ quang minh sung mãn mười phương.
Thiện Tài đồng tử rất vui mừng hớn hở vô lượng. Năm vóc gieo xuống đất đảnh lễ chân Tỳ-kheo Hải Tràng, hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chiêm ngưỡng tư duy quán sát ngậm ngùi luyến mộ. Nhớ danh hiệu của Tỳ-kheo Hải Tràng. Tưởng dung nhan cử chỉ của Tỳ-kheo Hải Tràng. Ghi âm thanh của Tỳ-kheo Hải Tràng. Suy gẫm tam-muội của Tỳ-kheo Hải Tràng và đại nguyện cùng cảnh giới. Thọ lấy trí tuệ quang minh thanh tịnh của Tỳ-kheo Hải Tràng, sau đó từ tạ mà đi.
Đồng tử Thiện Tài từ giã Tỳ-kheo Hải Tràng, tư duy về pháp tu và thành tựu được pháp tu, nhận lấy trí tuệ quang minh của Tỳ-kheo Hải Tràng. Trên đường đi Thiện Tài nhớ lời dạy của thiện trí thức, cảm nhận công ơn thiện tri thức thật là quý báu vô lượng vô biên.
Khi ấy Thiện Tài đồng tử nhờ sức thiện tri thức, y lời dạy của thiện tri thức, nhớ lời nói của thiện tri thức, thâm tâm mến thích thiện tri thức, Tự nghĩ rằng: Nhân thiện tri thức làm cho tôi được thấy Phật. Nhân thiện tri thức làm cho tôi được nghe pháp. Thiện tri thức là thầy học của tôi, vì chỉ dạy tôi những Phật pháp. Thiện tri thức là nhãn của tôi, vì làm cho tôi thấy Phật như hư không, Thiện tri thức là chiếc đò của tôi, vì làm cho tôi được vào ao hoa sen của chư Phật Như Lai.
Sau khi tham học thiện tri thức được lợi ích lớn lao, Thiện Tài nhận thấy thiện tri thức là người đưa mình tiến đến quả vị Phật. Thiện tri thức là thầy học, là con mắt sáng, là chiếc đò dưa mình vào ao sen của Phật. Ngài hết lòng tán thán ca ngợi thiện tri thức, vâng lời thiện tri thức để tiếp tục đi học hỏi, mặc dù vị tiếp theo chỉ là một ưu-bà-di.
Tại sao đến đây vị thiện tri thức là cư sĩ nữ? Vì Bồ-tát hạnh chú trọng phương tiện độ sanh, phương tiện thực hành được là gốc ở tâm đại bi. Nếu không có đại bị thì khó thành tựu, nên đây dùng hình ảnh ưu-bà-di, người nữ tượng trưng cho đại bi. Bồ-tát đến giai vị này được Bất thối trụ, thứ bảy trong Thập trụ. Bồ-tát đến Bất thối trụ thì công đức rất sâu dày, công dày thì phước lớn. Thiện Tài thấy vườn nhà của ưu-bà-di trang nghiêm rực rỡ, đó là do chiêu nhân cảm quả, không phải bỗng dưng mà có.
Vừa suy gẫm vừa đi lần qua phương Nam đến xứ Hải Triều, thấy vườn Phổ Trang Nghiêm, tường rào bằng các thứ bảo bao bọc. Tất cả cây báu hàng liệt trang nghiêm. Tất cả cây bảo hoa rải những diệu hoa trải trên mặt đất. Tất cả cây bảo hương mùi thơm ngào ngạt xông khắp mười phương. Tất cả cây tràng hoa báu mưa tràng hoa báu lớn rủ xuống khắp nơi. Tất cả cây ma-ni bảo vương mưa báu đại ma-ni rải đầy khắp nơi. Tất cả cây bảo y mưa y phục nhiều màu tùy cơ nghi giăng trải quanh vườn. Tất cả cây âm nhạc gió động thành tiếng êm dịu hơn thiên nhạc. Tất cả cây đồ trang nghiêm mưa những vật trên ngoạn kỳ diệu trần thiết nghiêm sức khắp nơi. Mặt đất trong vườn thanh tịnh không có cao thấp. Trong vườn có trăm vạn điện đường xây bằng đại ma-ni bảo. Có trăm vạn lâu các, vàng diêm phù-đàn che trùm phía trên. Trăm vạn cung điện, Tỳ-lô-giá-na ma-ni bảo xen lẫn trang nghiêm. Một vạn ao tắm các báu hợp thành. Lan thuẫn bảy báu bao bọc giáp vòng, thềm đường bảy báu phân bố bốn phía. Nước tám công đức đứng lặng đầy ao, hơi thơm như thiên chiên-đàn. Cát vàng trải đáy ao. Bảo châu thủy thanh xen lẫn khắp nơi. Nhiều loại chim đẹp du ngoạn trong đó hót tiếng hòa nhã. Cây bảo đa-la hàng liệt bao vòng, bảo võng giăng trùm, thông những linh vàng, gió nhẹ rung thường vang tiếng dịu. Giăng màn đại bảo. Dựng vô số ma-ni bảo tràng quang minh chiếu khắp trăm ngàn do-tuần. Trong đó lại có trăm vạn ao, bùn hắc chiên đàn ngưng đọng đáy ao. Tất cả diệu bảo làm hoa sen nở trên mặt nước. Hoa đại ma-ni màu sáng chiếu rực rỡ. Trong ao lại có cung điện rộng lớn tên là Trang Nghiêm Tràng Hải Tạng, diệu bảo làm nền, tỳ-lưu-ly bảo làm cột, diêm-phù-đàn kim che trên, quang tạng ma-ni dùng trang nghiêm, vô số bảo vương ánh sáng rực rỡ. Lầu nhiều từng giáp với gác nhiều thứ trang sức a-lô-na hương vương, giác ngộ hương vương, đều phát ra diệu hương xông khắp nơi.
Trong cung điện đó lại có vô lượng tòa bảo liên hoa trần thiết giáp vòng. Như là tòa bảo liên hoa ma-ni chiếu sáng mười phương. Tòa Tỳ-lô-giá-na ma-ni bảo liên hoa. Tòa ma-ni bảo liên hoa chiếu sáng thế gian. Tòa diệu tạng ma-ni bảo liên hoa. Tòa sư tử tạng ma-ni bảo liên hoa. Tòa ly cấu tạng ma-ni bảo liên hoa. Tòa phổ môn ma-ni bảo liên hoa. Tòa quang nghiêm ma-ni bảo liên hoa. Tòa an trụ đại hải tạng thanh tịnh ma-ni vương bảo liên hoa. Tòa kim cang sư tử ma-ni bảo liên hoa.
Trong vườn lại có trăm vạn thứ màn. Như là màn y phục, màn tràng hoa, màn hương, màn hoa, màn cành, màn ma-ni, màn chân kim, màn đồ trang nghiêm, màn âm nhạc, màn tượng vương thần biến, màn mã vương thần biển, màn ma-ni bảo của Thiên đế đeo.
Lại có trăm vạn mành lưới đại bảo giăng che phía trên. Như là lưới bảo linh, lưới bảo cái, lưới bảo thân, lưới hải tạng chân châu, lưới cám lưu ly ma-ni bảo, lưới sư tử ma-ni, lưới nguyệt quang ma-ni, lưới thơm nhiều hình tượng, lưới bảo quang, lưới bảo anh lạc.
Lại có trăm vạn đại quang minh chiếu sáng. Như Lai quang minh diệm quang ma-ni bảo. Quang minh nhật ma-ni bảo. Quang minh nguyệt tràng ma-ni bảo. Quang minh hương diệm ma-ni bảo. Quang minh thắng tạng ma-ni bảo. Quang minh liên hoa tạng ma-ni bảo. Quang minh diệm tràng ma-ni bảo. Quang minh đại đăng ma-ni bảo. Quang minh ma-ni bảo chiếu khắp mười phương. Quang minh hương quang ma-ni bảo.
Thường mưa trăm vạn đồ trang nghiêm, trăm vạn hương hắc chiên-đàn vang ra âm thanh vi diệu, trăm vạn hoa mạn-đà-la hơn hoa cõi trời, trăm vạn chuỗi ngọc hơn chuỗi cõi trời để trang nghiêm, trăm vạn tràng hoa báu đẹp hơn cõi trời thòng xuống khắp nơi, trăm vạn y phục nhiều màu hơn cõi trời, trăm vạn ma-ni bảo nhiều màu ánh sáng chiếu khắp nơi, trăm vạn thiên tử vui mừng chiêm ngưỡng đầu mặt đảnh lễ, trăm vạn thiên nữ ở giữa hư không bay xuống, trăm vạn Bồ-tát cung kính thân cận thường thích nghe pháp.
Lúc ấy, Hưu Xả ưu-bà-di ngồi tòa chân kim, đội mão hải tạng chân châu võng, đeo bảo xuyến chân kim hơn cõi trời, rủ tóc xanh biếc, đại ma bảo trang nghiêm trên đầu, sư tử khẩu ma-ni bảo làm bông tai, như ý ma-ni bảo vương làm chuỗi ngọc, bảo võng trùm trên thân. Trăm ngàn ức na-do-tha chúng sanh cúi mình cung kính.
Phương Đông có vô lượng chúng đến chỗ Ưu-bà-di. Như là Phạm thiên, Phạm Chúng thiên, Đại Phạm thiên, Phạm Phụ thiên, Tự Tại thiên, nhẫn đến tất cả hạng người và phi nhân. Chín phương kia cũng như vậy.
Có ai thấy Ưu-bà-di này thời tất cả bệnh khổ đều trừ diệt, lìa phiền não hết kiến chấp, xô núi chướng ngại, nhập nơi cảnh giới vô ngại thanh tịnh, thêm lớn tất cả những thiện căn, trưởng dưỡng các căn, vào tất cả môn trí tuệ, vào tất cả môn tổng trì, tất cả môn tam-muội, tất cả môn đại nguyện, tất cả môn diệu hạnh, tất cả môn công đức đều được hiện tiền. Tâm họ rộng lớn đầy đủ thần thông, thân không chướng ngại đến khắp mọi xứ.
Cảnh giới của ưu-bà-di Hưu Xả rực rỡ trang nghiêm, tất cả lâu đài, vườn tược đều bằng trân bảo, diệu hoa sung mãn. Đây là do nhân tu sâu dày, làm nhiều lợi ích cho chúng sanh. Bồ-tát trải qua vô số đời dùng nhiều phương tiện giáo hóa chúng sanh. Chúng sanh đau khổ đến thì các ngài tùy phương tiện giúp đỡ, an ủi. Chúng sanh có kiến chấp nặng nề thì dẹp sạch giúp họ hết kiến chấp. Chúng sanh bị nhiễm ô thì các ngài phương tiện dạy bảo tu hành cho được thanh tịnh. Tất cả bệnh chấp, xấu ác, nghiệp chướng của chúng sanh các ngài đều có phương tiện giáo hóa chuyển biến khiến họ từ xấu trở thành tốt, từ chấp trở thành giải thoát. Đây là công dụng của phương tiện.
Thiện Tài đồng tử vào vườn Phổ Trang Nghiêm, xem xét khắp nơi, thấy Hưu Xả ưu bà di ngồi diệu tòa, liền đến đảnh lễ chân Ưu-bà-di rồi hữu nhiễu vô số vòng, thưa rằng:
Khu vườn tên Phổ Trang Nghiêm là tiêu biểu Bồ-tát được Bất thối trụ công đức rất lớn, nên sự trang nghiêm của vườn này đầy khắp.
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo có thể dạy bảo, xin vì tôi mà giảng giải.
Ưu-bà-di nói: Này Thiện nam tử! Ta chỉ được một môn giải thoát của Bồ-tát. Nếu có ai thấy nghe nhớ nghĩ đến ta, cùng ta ở chung, cung cấp cho ta thời không luống công.
Bồ-tát này được một môn giải thoát, tất cả chúng sanh nhớ nghĩ đến, cùng ở chung với ngài đều được lợi ích.
Này Thiện nam tử. Nếu có chúng sanh chẳng gieo căn lành, chẳng được thiện hữu nhiếp thọ, chẳng được chư Phật hộ niệm, kẻ đó chẳng thấy được ta.
Nếu người không có duyên thì không gặp Bồ-tát để được độ. Chúng sanh nào đã từng gieo căn lành, có duyên với Phật pháp mới được gặp Bồ-tát dùng phương tiện giáo hóa. Đây nhấn mạnh việc gieo trồng căn lành, được thiện hữu nhiếp thọ, được chư Phật hộ niệm.
Này Thiện nam tử! Có chúng sanh nào được thấy ta thời đều được chẳng thối chuyển vô thượng Bồ-đề. Này Thiện nam tử! Chư Phật phương Đông thường đến đây, ngự trên bảo tòa vì ta mà thuyết pháp. Chư Phật chín phương kia cũng vậy.
Bồ-tát vào địa vị Bất thối trụ đối với Phật pháp không bao giờ lui sụt, đối với chư Phật không bao giờ xa rời, vì thế mười phương chư Phật đều đến ngự trên tòa này thuyết pháp.
Này Thiện nam tử! Ta thường chẳng rời thấy Phật, nghe pháp, cùng chư Bồ-tát ở chung. Này Thiện nam tử! Nơi vườn này có tám muôn bốn ngàn ức na-do-tha đại chúng cùng ta đồng hành, đều bất thối chuyển nơi vô thượng Bồ-đề. Những chúng sanh khác ở trong vườn này cũng đều nhập bậc bất thối chuyển.
Chẳng những Ưu-bà-di này được Bất thối chuyển nơi vô thượng Bồ-đề, tất cả chúng sanh ở trong vườn này đều được nhập Bất thối chuyển.
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Ngài phát tâm vô thượng Bồ-đề được bao lâu?
Ưu-bà-di nói: Này Thiện nam tử! Ta nhớ quá khứ ở chỗ đức Nhiên Đăng Phật, ta tu hành phạm hạnh, cung kính cúng dường nghe pháp thọ trì. Trước đó ở chỗ đức Ly Cấu Phật, ta xuất gia học đạo thọ trì chánh pháp. Trước đó ở chỗ đức Diệu Tràng Phật. Trước nữa ở chỗ Thắng Tu-di Phật. Trước nữa ở chỗ đức Liên Hoa Đức Tạng Phật. Trước nữa ở chỗ đức Tỳ-lô-giá-na Phật. Trước nữa ở chỗ đức Phổ Nhãn Phật. Trước nữa ở chỗ đức Phạm Thọ Phật. Trước nữa ở chỗ đức Kim Cang Tê Phật. Trước nữa ở chỗ đức Bà-lâu-na Thiên Phật.
Này Thiện nam tử! Ta nhớ thuở quá khứ vô lượng kiếp, trong vô lượng đời, thứ đệ như vậy ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật, ta đều thờ kính cúng dường nghe pháp thọ trì tịnh tu phạm hạnh. Quá đây về trước thì Phật trí mới biết được, chẳng phải trí của ta có thể lường đến.
Vị Ưu-bà-di này phát tâm thứ đệ từ chỗ ba mươi sáu hằng hà sa chư Phật. Ý nghĩa thế nào? Pháp tu ở đây là Phương tiện ba-la-mật, dùng Bát-nhã quán thành tựu ba giải thoát môn Không, Vô tướng, Vô tác (Vô nguyện). Khi quán chiếu thành tựu ba môn này liền được tiêu dung sáu căn sáu trần, không còn chấp ngã chấp pháp. Như vậy mỗi môn trừ được sáu căn sáu trần cộng lại là mười hai, ba môn cộng lại ba mươi sáu. Đó là ý nghĩa tượng trưng thờ kính ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật.
Này Thiện nam tử! Bồ-tát mới phát tâm không có hạn lượng, vì sung mãn tất cả pháp giới. Bồ-tát đại bi môn không hạn lượng, vì vào khắp tất cả thế gian. Bồ-tát đại nguyện môn không hạn lượng, vì rốt ráo mười phương pháp giới. Bồ-tát đại từ môn không hạn lượng, vì che khắp tất cả chúng sanh. Bồ-tát tu hành không hạn lượng, vì tu tập trong tất cả cõi tất cả kiếp. Bồ-tát tam-muội lực không hạn lượng, vì làm cho Bồ-tát đạo chẳng thối chuyển. Bồ-tát tổng trì lực không hạn lượng, vì có thể nhiếp trì tất cả thế gian. Bồ-tát trí quang lực không hạn lượng, vì có thể chứng nhập khắp tam thế. Bồ-tát thần thông lực không hạn lượng, vì hiện khắp tất cả cõi. Bồ-tát biện tài lực không hạn lượng, vì một âm thanh mà tất cả đều hiểu. Bồ-tát thanh tịnh thân không hạn lượng, vì đều khắp tất cả cõi Phật.
Đoạn này nói Bồ-tát dùng từ bi hạnh nguyện vô lượng tam-muội, vô lượng tổng trì… tất cả đều không hạn lượng nên Bồ-tát phát tâm không hạn lượng.
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Bao lâu nữa Ngài sẽ chứng vô thượng Bồ-đề?
Hưu Xả ưu-bà-di nói: Này Thiện nam tử! Bồ-tát chẳng vì giáo hóa điều phục một chúng sanh mà phát Bồ-đề tâm. Chẳng vì giáo hóa điều phục trăm chúng sanh, ngàn chúng sanh, cho đến chẳng vì giáo hóa điều phục bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh mà phát Bồ-đề tâm. Chẳng vì giáo hóa chúng sanh trong một thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ-đề tâm. Chẳng vì giáo hóa Diêm phù đề vi trần số chúng sanh, Đại thiên thế giới vi trần số chúng sanh, nhẫn đến chẳng vì giáo hóa bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vị trần số thế giới chúng sanh mà phát Bồ-đề tâm.
Chẳng vì cúng dường một đức Như Lai, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đức Như Lai mà phát Bồ-đề tâm. Chẳng vì cúng dường chư Như Lai thứ đệ xuất thế trong một thế giới nhẫn đến trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ-đề tâm. Chẳng vì cúng dường chư Như Lai thứ đệ xuất thế trong Đại thiên thế giới vi trần số thế giới, nhẫn đến trong bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số thế giới mà phát Bồ-đề tâm.
Chẳng vì nghiêm tịnh một số thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới mà phát Bồ-đề tâm. Chẳng vì nghiêm tịnh một Đại thiên thế giới vi trần số thế giới, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vi trần số thế giới mà phát Bồ-đề tâm.
Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một đức Như Lai nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đức Như Lai mà phát Bồ-đề tâm. Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một thế giới Như Lai nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới Như Lai mà phát Bồ-đề tâm. Chẳng vì trụ trì giáo pháp của một Diêm-phù-đề vi trần số thế giới Như Lai nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thế giới Như Lai mà phát Bồ-đề tâm.
Như vậy lược nói, chẳng vì mãn thệ nguyện của một Như Lai, chẳng vì đến một Phật độ, chẳng vì nhập một Phật chúng hội, chẳng vì trì một Phật pháp nhãn, chẳng vì chuyển một Phật pháp luân, chẳng vì biết những kiếp thứ đệ trong một thế giới, chẳng vì biết một chúng sanh tâm hải, chẳng vì biết một chúng sanh căn hải, chẳng vì biết một chúng sanh nghiệp hải, chẳng vì biết một chúng sanh hạnh hải, chẳng vì biết một chúng sanh phiền não hải, chẳng vì biết một chúng sanh phiền não tập hải, nhẫn đến chẳng vì biết bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh phiền não tập hải mà phát Bồ-đề tâm.
Mà chính vì muốn giáo hóa điều phục tất cả chúng sanh không để sót thừa nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn cúng dường tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn nghiêm tịnh tất cả Phật độ không để sót nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn hộ trì chánh pháp của tất cả chư Phật không để sót nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn thành mãn đại nguyện của tất cả Như Lai không để sót mà phát Bồ-đề tâm. Vì muốn đến tất cả Phật độ không để sót mà phát Bồ-đề tâm. Vì muốn nhập tất cả Phật chúng hội không để sót mà phát Bồ-đề tâm. Vì muốn biết những kiếp thứ đệ trong tất cả kiếp không để sót mà phát Bồ-đề tâm. Vì muốn biết tất cả chúng sanh tâm hải không sót nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn biết tất cả chúng sanh căn hải không sót nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn biết tất cả chúng sanh nghiệp hải không sót nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn biết tất cả chúng sanh hạnh hải không sót nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn diệt tất cả chúng sanh phiền não hải không sót nên phát Bồ-đề tâm. Vì muốn trừ tất cả chúng sanh phiền não tập hải không sót nên phát Bồ-đề tâm.
Này Thiện nam tử! Tóm lược mà nói, Bồ-tát dùng vô lượng trăm ngàn vô số phương tiện hạnh như vậy mà phát Bồ-đề tâm.
Này Thiện nam tử! Bồ-tát hạnh vào khắp tất cả pháp, vì đều chứng được. Vào khắp tất cả cõi, vì đều nghiêm tịnh.
Vì thế nên Thiện nam tử! Khi nghiêm tịnh hết tất cả thế giới thì nguyện của tôi mới hết.
Khi dứt hết phiền não tập khí của tất cả chúng sanh thì nguyện của tôi mới mãn.
Trả lời câu hỏi của Thiện Tài, bao lâu ngài thành Phật, vị Ưu-bà-di này cho biết vì hạnh nguyện vô tận nên thời gian thành Phật cũng vô tận.
Những nguyện hạnh này giống nguyện của Bồ-tát Địa Tạng. Khi tất cả chúng sanh dứt hết tập khí phiền não thì nguyện của ngài mới mãn. Đó là câu kết thúc chung. Tất cả nguyện của Bồ-tát không thừa không sót, độ chúng sanh không thừa không sót, cúng dường Phật không thừa không sót, lúc đó mới thành Phật.
Chúng ta không lo mình không tu được, vì không ai bị bỏ sót. Ngược lại cũng có một số người ỷ vào lời nguyện này mà không lo tu, vì nếu mình chưa được độ thì các ngài chưa thành Phật. Có tâm ỷ lại như vậy không lợi ích gì cho chính mình. Cũng có nghi vấn, đức Phật Thích-ca đã trải qua hạnh Bồ-tát, cũng có nguyện như Bồ-tát, nhưng hiện tại ngài thành Phật rồi mà chúng sanh vẫn còn nhiều. Như thế có phải là nguyện suông không? Phải hiểu chỗ này. Bồ-tát phát Bồ-đề tâm không phải như chúng ta phát tâm đi chùa, ăn chay, tu tập một vài ngày. Bồ-tát phát tâm nói theo Thiền tông là đã thấy tánh, gọi là kiến tánh khởi tu. Thể tánh ấy trùm khắp không ngằn mé, nên phát Bồ-đề tâm cũng trùm khắp không ngằn mé. Do kiến tánh khởi tu, tất cả hạnh nguyện tu tập cũng không chừng ngắn, không hạn lượng.
Như vậy, đứng về lý không giới hạn nên phát nguyện rộng lớn tận vô biên tế, diễn tả bằng những từ nghiệp hải, hạnh hải, phiền não hải v.v… Tất cả tương ưng nhau. Về sự thì khi các ngài dứt sạch phiền não, thấy thời gian, không gian, chúng sanh như huyễn, quốc độ như huyễn, pháp môn tu chứng như huyễn nên không có Phật để thành, không có chúng sanh để độ. Khởi lòng từ vô lượng lăn xả vào thế giới, không có đầu mối cũng không có cùng tận. Chúng ta dùng mắt phàm nên thấy có đây có kia, có chúng sanh chưa thành Phật, có Phật đã thành, nên khởi nghi nan sai lầm như thế.
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Môn giải thoát này tên là gì?
Hưu Xả ưu-bà-di nói: Này Thiện nam tử! Môn giải thoát này tên là “Ly ưu an ổn tràng”.
Ly ưu an ổn tràng là chỗ an ổn khiến mọi người lìa buồn khổ. Bồ-tát có phương tiện khiến chúng sanh lìa khổ được vui, là pháp môn giải thoát cần tu học.
Ta chỉ biết một môn giải thoát này. Như chư đại Bồ-tát, tâm như biển cả có thể đều dung thọ tất cả Phật pháp. Như núi Tu-di, chí ý kiên cố chẳng bị lay động. Như vị thuốc thiện kiến, hay trừ những bệnh nặng phiền não của các chúng sanh. Như mặt nhật sáng sạch, hay phá chúng sanh vô minh ám chướng. Dường như đại địa, hay làm chỗ y tựa cho tất cả chúng sanh. Như gió tốt, hay làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Như đèn sáng hay vì chúng sanh mà sanh trí tuệ quang. Như đại vân hay vì chúng sanh mà mưa đại pháp tịch diệt. Như minh nguyệt hay vì chúng sanh mà phóng phước đức quang, Như Thiên đế, đều hay thủ hộ tất cả chúng sanh. Như thế thời ta làm sao biết được hết, nói được hết những công đức đó.
Này Thiện nam tử! Phương Nam xứ Hải Triều đây có một nước tên là Na-la-tố. Trong đó có tiên nhân tên là Tỳ mục cù sa. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo?
Giới thiệu tiếp theo, để thấy sự tu hành cần phải tiến lên không phải dừng trụ một chỗ.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Hưu Xả ưu-bà-di, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ. Tự nghĩ rằng được Bồ-đề khó, gần thiện tri thức khó, gặp thiện tri thức khó, được gặp đồng hành thiện tri thức khó, đúng lý quán sát khó, y giáo tu hành khó, Bồ-tát căn khó, tịnh Bồ-tát căn khó, gặp gỡ xuất sanh thiện tâm phương tiện khó, gặp gỡ thêm lớn Nhất thiết trí pháp quang minh khó. Nghĩ xong, Thiện Tài từ tạ Ưu-ba-di mà đi.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử tùy thuận tư duy chánh giáo của Bồ-tát. Tùy thuận tư duy tịnh hạnh của Bồ-tát. Sanh tâm tăng trưởng phước lực của Bồ-tát, sanh tâm thấy rõ tất cả chư Phật. Sanh tâm xuất sanh tất cả chư Phật. Sanh tâm tăng trưởng tất cả đại nguyện. Sanh tâm thấy khắp các pháp mười phương. Sanh tâm chiếu rõ thật tánh của các pháp. Sanh tâm phá tan khắp tất cả chướng ngại. Sanh tâm quán sát pháp giới không tối. Sanh tâm thanh tịnh ý bảo trang nghiêm. Sanh tâm xô dẹp tất cả chúng ma.
Thiện Tài đảnh lễ chân ưu-bà-di Hưu Xả ân cần chiêm ngưỡng, buồn khóc rơi lệ. Dù vị này là cư sĩ nữ, nhưng đã chỉ dạy pháp môn giải thoát, thị hiện nhiều cảnh trang nghiêm thanh tịnh, trên đường cầu đạo phải có tâm cung kính, không phân biệt cao thấp nam nữ… thì mới trọn vẹn.
Thiện Tài tư duy tịnh hạnh của Bồ-tát, quán sát lời Ưu-bà-di đã dạy, nhập được Bất thối trụ, không còn sợ thối chí nản lòng, xô dẹp tất cả chúng ma.
Thiện Tài đồng tử lần lần du hành đến nước Na-la-tố tìm tiên nhân Tỳ-mục-cù-sa, thấy một khu rừng lớn vô số cây trang nghiêm. Như là những cây lá rậm rợp che mát, những cây nở hoa sặc sỡ, những cây đơm trái chín tiếp nối. Lại có những cây báu mưa trái mani, những cây chiên đàn lớn bày hàng khắp nơi, những cây trầm thủy thường thoảng hương thơm, những cây duyệt ý hương thơm tho trang nghiêm, những cây ba-tra-la bao bọc bốn phía, những cây ni-câu-luật cao vút, những cây diêm phù-đàn thường mưa trái ngọt, những bông sen xanh, bông sen đỏ trang nghiêm ao hồ.
Tỳ-mục-cù-sa Trung Hoa dịch “Xuất thanh khả úy” nghĩa là phát ra tiếng đáng sợ. Tại sao cầu học Bồ-tát đạo mà học với vị tiên, lại là người phát ra tiếng đáng sợ? Đây là bậc Đồng chân trụ, bậc thứ tám trong Thập trụ. Đồng chân nghĩa là tất cả đều đồng với lẽ chân, vì thế dù là ngoại đạo, dù là bậc tiên nhân cũng không ngoài lẽ thật ấy. Thế nên hiện tướng tiên nhân mà không rời Phật đạo. Xuất thanh khả úy là sao? Đây thuộc về Nguyện ba-la-mật, thệ nguyện mạnh mẽ, đáng nể phục làm những việc phi thường. Do sức thệ nguyện mạnh mẽ mà các ngài hàng phục tà giáo, ngoại đạo, khiến tất cả ma chướng sợ hãi nép phục.
Thiện Tài đồng tử thấy tiên nhân Tỳ-mục cù sa trải cỏ ngồi dưới cây chiên đàn, đồ chúng mười ngàn người. Có người mặc da nai, mặc vỏ cây, có người bện cỏ làm y phục, vấn tóc, để râu trước sau vây quanh.
Đây là bậc Đồng chân trụ, tuy hình thức ngoại đạo mà không rời Phật pháp. Đồng chân trụ là trụ chỗ chân thật nên vị thiện tri thức này không trang điểm bên ngoài, chỉ trải cỏ ngồi dưới gốc cây, đồ chúng cũng hình nd nol thức đơn sơ mặc áo da nai, áo vỏ cây, áo cỏ…
Thiện Tài đến mọp lạy thưa Tiên nhân rằng:
Nay tôi được gặp chân thiện tri thức. Thiện tri thức là cửa xu hướng Nhất thiết trí, vì làm cho tôi được vào đạo chân thật.
Nhờ thiện trí thức mà được vào đạo chân thật, tức đồng chân trụ.
Thiện tri thức là cỗ xe xu hướng Nhất thiết trí. Vì làm cho tôi được đến Như Lai địa. Thiện tri thức là thuyền xu hướng Nhất thiết trí, vì làm cho tôi được đến châu trí bảo. Thiện tri thức là đuốc xu hướng Nhất thiết trí, vì khiến tôi được sanh ánh sáng thập lực. Thiện tri thức là đường xu hướng Nhất thiết trí, vì làm cho tôi được vào thành Niết-bàn. Thiện tri thức là đèn xu hướng Nhất thiết trí, vì làm cho tôi thấy được đường yên lành hay hiểm trở. Thiện tri thức là cầu xu hướng Nhất thiết trí, vì làm cho tôi qua khỏi chỗ hiểm ác. Thiện tri thức là lọng xu hướng Nhất thiết trí, vì làm cho tôi được sanh lòng đại từ mát mẻ. Thiện tri thức là con mắt xu hướng Nhất thiết trí, vì làm cho tôi được thấy môn pháp tánh. Thiện tri thức là nước triều xu hướng Nhất thiết trí, vì làm cho tôi đầy đủ nước đại bi.
Thiện Tài tán thán công đức của bậc thiện tri thức, như là xe, thuyền, đuốc sáng, đường, cầu đò… dẫn đạo đến Nhất thiết trí. Kinh Hoa Nghiêm có hai điểm tối quan trọng là phát Bồ-đề tâm và thiện tri thức. Thiện Tài đến gặp thiện tri thức thì vị nào cũng ca ngợi công đức phát Bồ-đề tâm của ngài. Đối lại, ngài ca ngợi công đức của thiện tri thức. Hai điều đó rất thiết yếu quan trọng trong việc tu của chúng ta, tu được hay không là từ đó. Thứ nhất là phát Bồ-đề tâm mãnh liệt. Thứ hai là gặp thầy lành bạn tốt. Nếu phát tâm mãnh liệt mà không gặp thầy lành bạn tốt thì tu một lúc rất dễ thối chuyển.
Tất cả sự tối ưu trong kinh Hoa Nghiêm đều nói về sự tán thán phát Bồ-đề tâm và tán thán các bậc thiện tri thức. Sở dĩ Thiện Tài đi đến quả vị Phật nhanh chóng ngay trong hiện đời là nhờ các thiện tri thức hướng dẫn. Đầu tiên là Bồ-tát Văn-thù đánh thức tâm Bồ-đề của ngài, kế đó trải qua năm mươi hai vị thiện tri thức lần lượt chỉ dạy. Tất cả phần tham vấn, cầu học, vâng lời chỉ dạy, chứng ngộ đạo lý của Thiện Tài trong phẩm Nhập Pháp Giới đều nhấn mạnh về phát Bồ-đề tâm và tán thán thiện tri thức.
Nói xong, Thiện Tài đứng dậy hữu nhiễu vô lượng vòng đứng chắp tay thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo. Tôi nghe đức Thánh khéo dạy dỗ. Xin chỉ dạy cho tôi.
Tỳ-mục-cù-sa đoái nhìn đồ chúng mà nói: Này đại chúng!Đồng tử này đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, khắp ban sự vô úy cho tất cả chúng sanh, khắp ban sự lợi ích cho tất cả chúng sanh, thường quán sát trí hải của tất cả chư Phật. Đồng tử này muốn uống tất cả pháp vũ cam lồ, muốn lường tất cả pháp hải rộng lớn, muốn cho chúng sanh an trụ trong trí hải, muốn khắp phát khởi mây bi rộng lớn, muốn khắp mưa pháp vũ rộng lớn, muốn dùng trí nguyệt chiếu khắp thế gian, muốn diệt thế gian phiền não độc nhiệt, muốn làm lớn tất cả thiện căn cho chúng sanh.
Tiên chúng nghe lời trên đây rồi đều đem những hương hoa đẹp tốt rải trên thân Thiện Tài, làm lễ cung kính mà nói rằng: Đồng tử này tất sẽ cứu hộ tất cả chúng sanh, tất sẽ trừ diệt khổ địa ngục, tất sẽ dứt hẳn loài súc sanh, tất sẽ chuyển bỏ cõi Diêm-la vương, tất sẽ đóng bít cửa chướng nạn, tất sẽ làm khô cạn biển ái dục, tất sẽ làm cho chúng sanh diệt hẳn khổ uẩn, tất sẽ phá hẳn vô minh hắc ám, tất sẽ dứt hẳn dây trói tham ái, tất sẽ dùng dãy núi phước đức bao bọc thế gian, tất sẽ đem đại bảo trí tuệ hiển thị thế gian, tất sẽ xuất hiện trí nhật thanh tịnh, tất sẽ khai thị pháp tạng thiện căn, tất sẽ làm cho thế gian biết rõ là hiểm khó hay là dễ dàng.
Như vậy là thầy trò khen nhau phải không? Trước là Thiện Tài tán thán thiện tri thức Tỳ-mục-cù-sa, đến đây Tiên nhân tán thán Thiện Tài phát Bồ-đề tâm. Hai điểm then chốt của kinh Hoa Nghiêm biểu hiện rõ ràng như thế.
Tỳ-mục-cù-sa bảo quần tiên rằng: Nếu có người hay phát tâm vô thượng Bồ-đề, tất sẽ được thành đạo Nhất thiết trí. Đồng tử này đã phát tâm vô thượng Bồ-đề tất sẽ tịnh bậc tất cả công đức của chư Phật.
Tỳ-mục cù-sa bảo Thiện Tài: Này Thiện nam tử! Ta được môn Bồ-tát vô thắng tràng giải thoát.
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Cảnh giới của Vô thắng tràng giải thoát như thế nào?
Lúc đó Tỳ-mục cù sa tiên nhân liền giơ tay hữu xoa đầu Thiện Tài, cầm tay Thiện Tài. Thiện Tài liền thấy mình đến trong mười Phật sát vị trần thế giới mười phương, chỗ của mười Phật sát vị trần số thế giới chư Phật. Thấy chư Phật và chúng hội cùng Phật độ trang nghiêm thanh tịnh. Lại nghe chư Phật tùy sở thích của các chúng sanh mà thuyết pháp, mỗi câu mỗi văn đều thông đạt cả, đều riêng thọ trì không tạp loạn. Cũng biết đức Phật đó dùng những tri giải tịnh trị các nguyện. Cũng biết chư Phật đó dùng thanh tịnh nguyện thành tựu các lực. Cũng thấy chư Phật đó tùy chúng sanh tâm mà hiện sắc tướng. Cũng thấy chư Phật đó, lưới đại quang minh nhiều màu sắc thanh tịnh viên mãn. Cũng biết chư Phật đó, trí tuệ vô ngại sức đại quang minh.
Thiện Tài trải qua cuộc du hành bất khả thuyết, thấy mình đến chỗ mười Phật sát vi trần thế giới, thấy biết việc làm, thần thông trí tuệ của chư Phật đó. Tiên nhân Tỳ-mục-cù-sa hiển thị cảnh giới Vô thắng tràng giải thoát bằng cách để tay lên đầu Thiện Tài, cầm tay Thiện Tài, ý đích thân ban cho trí tuệ và dẫn đường giải thoát.
Thiện Tài lại tự thấy mình ở chỗ chư Phật qua một ngày đêm, hoặc bảy ngày đêm, nữa tháng, một tháng, một năm, mười năm, trăm năm, ngàn năm, hoặc trải qua ức năm, hoặc a-du-đa ức năm, hoặc na-do-tha ức năm, hoặc trải qua nữa kiếp, hoặc một kiếp, trăm kiếp, ngàn kiếp, hoặc trăm ngàn kiếp, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số kiếp.
Nhờ Bồ-tát Vô thắng tràng giải thoát trí quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài đồng tử được Tỳ-lô-giá-na tạng tam-muội quang minh. Nhờ Vô tận trí giải thoát tam-muội quang minh chiếu đến nên Thiện Tài được Phổ nhiếp chư phương đà la ni quang minh. Nhờ Kim cang luân đà-la-ni môn quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được Cực thanh tịnh trí tuệ tâm tam-muội quang minh. Nhờ Phổ môn trang nghiêm tạng Bát-nhã ba-la-mật quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được Phật hư không tạng luân tam-muội quang minh. Nhờ Nhất thiết Phật pháp luân tam-muội quang minh chiếu đến, nên Thiện Tài được Tam thế vô tận trí tam-muội quang minh.
Bấy giờ tiên nhân Tỳ-mục cù-sa buông tay Thiện Tài đồng tử. Thiện Tài liền tự thấy mình ở tại chỗ cũ.
Thiện Tài thấy mình ở chỗ chư Phật, được hào quang tam-muội chiếu đến nên chứng rất nhiều tam-muội quang minh, trải qua số kiếp không thể tính kể. Khi Tiên nhân buông tay Thiện Tài liền thấy mình ở chỗ cũ. Đây là nói rõ ý nghĩa như huyễn. Bồ-tát tu pháp môn như huyễn, độ chúng sanh như huyễn. Vì vậy ngài vừa cầm tay thì Thiện Tài thấy những việc xảy ra trải qua bao nhiêu năm tháng, đến một kiếp, bao nhiêu vị trần số kiếp, buông tay ra liền không còn gì cả. Trong thời gian đó, Thiện Tài thấy mình chứng được bao nhiêu tam-muội, bao nhiêu Phổ môn trang nghiêm, cho đến trí vô tận… Chủ yếu của Phật giáo Đại thừa là dùng pháp như huyễn độ chúng sanh như huyễn, cho đến công đức như huyễn… Nếu không có hiện tượng này chúng ta sẽ cho rằng Bồ-tát chứng pháp này trụ pháp kia đều là thật, thấy tất cả là thật dễ đưa đến kiến chấp ngăn ngại.
Tất cả pháp môn tu chứng của Bồ-tát chỉ để đối trị tất cả tâm bệnh chính mình và chúng sanh, như lương y tùy bệnh cho thuốc, Chúng sanh không thật, bệnh không thật thì thuốc làm gì có thật. Vì thế vừa cầm tay, buông tay, tất cả thời gian số kiếp vi trần tưởng như lâu xa, những pháp môn tưởng như vi diệu hy hữu, đều không thật có. Để nói rằng khi Bồ-tát hộ niệm thì tu được tất cả, nhưng rốt cuộc những sự việc đó chỉ như trong mộng. Người ngộ Phật pháp rồi thì thấy tất cả đều phương tiện, tất cả như một cái cầm tay buông tay.
Tiên nhân bảo Thiện Tài: Này Thiện nam tử! Ngươi có ghi nhớ chăng?
Thiện Tài thưa: Bạch vâng! Đây là do sức của đức Thánh thiện tri thức vậy.
Tiên nhân nói: Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn Bồ-tát Vô thắng tràng giải thoát này. Như chư đại Bồ-tát thành tựu tất cả tam-muội thù thắng, được tự tại trong tất cả thời gian. Trong khoảng một niệm xuất sanh chư Phật vô lượng trí tuệ. Dùng đèn Phật trí làm trang nghiêm để chiếu khắp thế gian. Trong một niệm vào khắp cảnh giới tam thế. Phân thân qua khắp cõi nước mười phương. Trí thân vào khắp tất cả pháp giới. Tùy theo tâm chúng sanh mà hiện ra trước họ, xem xét căn hành của họ để làm lợi ích, phóng tịnh quang minh rất đáng mến thích.
Như thế, ta làm sao biết được tất cả, nói được tất cả công đức hạnh đó, thù thắng nguyện đó, trang nghiêm độ đó, trí cảnh giới đó,tam-muội cảnh giới đó, thần thông biến hóa đó, giải thoát du hý đó, thân tướng sai biệt đó, âm thanh thanh tịnh đó, trí tuệ quang minh đó.
Này Thiện nam tử! Phương Nam này có một tụ lạc tên là Y-sa-na, có Bà-la-môn tên là Thắng Nhiệt Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo?
Vị thiện tri thức tiếp theo là một Bà-la-môn. Phần trước chú trọng giải thoát nên thiện tri thức là những vị Tỳ-kheo, đến đây là phần phương tiện nguyện lực nên thiện tri thức có thể là tiên nhân, ngoại đạo. Đây là tùy loại chúng sanh giáo hóa cho họ được an lạc. Vị thiện tri thức này lạ hơn các vị kia, nếu chúng ta được gặp ắt cũng sanh nghi ngờ không dám tiến bước.
Thiện Tài đồng tử vui mừng hớn hở, đảnh lễ tiên nhân Tỳ-mục-cù-sa, hữu nhiễu vô số vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi qua phương Nam.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử nhờ Bồ-tát Vô thắng tràng giải thoát chiếu đến nên được trụ chư Phật bất tư nghì thần lực, được chứng Bồ-tát bất tư nghì giải thoát thần thông trí, được Bồ-tát bất tư nghì tam-muội trí quang minh, được tất cả thời gian huân tu tam-muội trí quang minh, được biết rõ tất cả cảnh giới đều nương tưởng mà an trụ tam-muội trí quang minh, quang minh. Đều hiện thân mình ở tất cả chỗ. Dùng trí cứu cánh nói pháp bình đẳng không hai không phân biệt. Dùng trí sáng sạch chiếu khắp cảnh giới. Phàm những pháp được nghe đều có thể nhẫn thọ tin hiểu thanh tịnh. Nơi pháp tự tánh quyết định rõ ràng. Tâm luôn chẳng bỏ Bồ-tát diệu hạnh. Cầu Nhất thiết trí trọn không thối chuyển. Chứng được thập lực trí tuệ quang minh. Siêng cầu diệu pháp thường chẳng nhàm đủ. Dùng chánh tu hành nhập Phật cảnh giới. Xuất sanh Bồ-tát vô lượng trang nghiêm, vô biên đại nguyện đều đã thanh tịnh. Dùng trí vô cùng tận mà biết vô biên thế giới võng. Dùng tâm không khiếp nhược mà độ vô lượng chúng sanh hải. Rõ vô biên công hạnh cảnh giới của Bồ tát. Thấy vô biên thế giới những thứ sai biệt, những thứ trang nghiêm. Nhập vô biên thế giới những cảnh vi tế. Biết vô biên thế giới những danh hiệu, những ngôn ngữ. Biết vô biên chúng sanh các tri giải, các công hạnh, các hạnh thành thục, những tưởng sai biệt.
Thiện Tài rời khỏi chỗ của tiên nhân Tỳ-mục-cù sa, suy nghĩ về pháp tu của Tiên nhân đã dạy. Tất cả pháp sở chứng của thiện tri thức, Thiện Tài cũng chứng được. Dần dần ngài đi đến tụ lạc Y-sa-na.
Thiện Tài nghĩ tưởng thiện tri thức đồng thời đi lần đến tụ lạc Y-sa-na, thấy Thắng Nhiệt Bà-la-môn tu những khổ hạnh cầu Nhất thiết trí, bốn phía đốt lửa ngọn cao như núi lớn, ở giữa có núi đao cao nhọn vô cực. Thắng Nhiệt leo lên núi đao nhảy vào đống lửa.
Đây là vị thiện tri thức thứ chín, được Pháp vương tử trụ, pháp tu là Lực ba-la-mật. Pháp vương tử trụ ở vào địa vị con của Pháp vương, là bậc thứ chín trong Thập trụ. Thế gian gọi địa vị này là thái tử, tiến lên gần bậc vua chúa, sức mạnh rất thù thắng, Vì vậy, pháp tu Lực ba-la-mật là sức mạnh rốt ráo. Vị Bà-la-môn này tên Thắng Nhiệt, nóng hơn tất cả sức nóng mới có thể nhảy vào lửa, nếu bằng hoặc kém hơn không thể nhảy vào lửa. Đó là chỉ cho sức mạnh vượt hơn tất cả, thiêu đốt tất cả phiền não, nên gọi là Thắng Nhiệt, chỉ cho nguyện lực mạnh mẽ phi thường.
Lúc đó Thiện Tài đến đảnh lễ chân Thắng Nhiệt mà thưa rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin giảng giải cho tôi.
Thắng Nhiệt nói: Này Thiện nam tử! Nay người có thể leo lên núi đao này, nhảy vào đống lửa này, thời những Bồ-tát hạnh sẽ được thanh tịnh.
Những điều này rất nguy hiểm, núi đao cao nhọn, bốn phía đốt lửa lớn, lại bảo leo lên núi đao nhảy vào lửa lớn là việc thật khó làm. Núi đao, đống lửa tượng trưng điều gì? Núi đao là chỉ cho các tà kiến của chúng sanh, của ngoại đạo. Đống lửa là chỉ cho những phiền não thiêu đốt chúng sanh. Người nào vượt khỏi tà kiến, vượt khỏi phiền não, người đó mới được thanh lương. Hình ảnh Bà-la-môn Thắng Nhiệt leo lên núi đao nhảy vào lửa lớn, ý nói ngài đã vượt khỏi tất cả tà kiến, diệt sạch tất cả phiền não, được tự tại. Khi Thiện Tài đồng tử đến cầu học, ngài cũng bảo làm đúng như vậy. Lúc ấy Thiện Tài suy nghĩ, đây có phải là ma chăng?
Lúc đó Thiện Tài nghĩ rằng được thân người là khó, lìa các nạn là khó, được không nạn là khó, được tịnh pháp là khó, được gặp Phật là khó, đủ các căn là khó, nghe Phật pháp là khó, gặp người lành là khó, gặp chân thiện tri thức là khó, thọ chánh giáo đúng lý là khó, được chánh mạng là khó, tùy pháp hành là khó. Đây phải chăng là ma, bị ma sai sử chăng? Phải chăng là đồ đảng hiểm ác của ma trá hiện tướng Bồ-tát thiện tri thức mà muốn làm chướng nạn cho thiện căn của tôi, muốn làm nạn thọ mạng để chướng sự tu hành đạo Nhất thiết trí của tôi. Muốn kéo tôi vào trong các ác đạo. Muốn chướng pháp môn của tôi, chướng Phật pháp của tôi chăng?
Thân này khó được, Phật pháp khó gặp, vị thiện tri thức này dạy phải leo lên núi đao, nhảy xuống đống lửa, như thế là hại mạng, không được học Phật pháp. Phải chăng đây là bị ma sai sử? Phải chăng đây là đồ hiểm ác trá hiện tướng Bồ-tát thiện tri thức làm chướng nạn thiện căn của mình? Lý trí nghi ngờ nên không dám tiến bước.
Lúc Thiện Tài suy nghĩ như vậy, mười ngàn Phạm thiên ở trên hư không bảo rằng:
Này Thiện nam tử! Chớ nghĩ như vậy, chứ tưởng như vậy. Đức Thánh đây đã được Kim cang diệm tam-muội quang minh, phát đại tinh tấn độ các chúng sanh tâm không thối chuyển, muốn cạn tất cả biển tham ái, muốn triệt tất cả lưới tà kiến, muốn thiêu tất cả củi phiền não, muốn soi tất cả rừng mê lầm, muốn dứt tất cả điều lo sợ về vấn đề già chết, muốn hoại tất cả chướng tam thế, muốn phóng tất cả pháp quang minh.
Này Thiện nam tử! Phạm thiên chúng tôi phần nhiều chấp tà kiến, đều tự cho mình là bậc tự tại, là đấng làm ra tất cả, là tối thắng trong thế gian.
Khi thấy Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, lòng chúng tôi không còn mến luyến cung điện của mình, chẳng còn tham đắm các thiền định, cùng nhau đến chỗ Bà-la-môn này. Bấy giờ Bà-la-môn này dùng sức thần thông hiển thị sự khổ hạnh lớn vì chúng tôi mà thuyết pháp, có thể làm cho chúng tôi diệt tất cả sự chấp, trừ tất cả kiêu mạn, an trụ đại từ, thật hành đại bi, phát khởi tâm quảng đại, phát Bồ-đề tâm, thường thấy chư Phật, hằng nghe diệu pháp, ở tất cả chỗ tâm không chướng ngại.
Lại có mười ngàn chư ma ở trên hư không đem thiên ma-ni bảo rải trên mình Bà-la-môn mà bảo Thiện Tài đồng tử rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu khuất chúng tôi, cung điện và những đồ trang nghiêm của chúng tôi đều như đống mực đen, làm cho chúng tôi không còn mến luyến. Chúng tôi cùng quyến thuộc đến chỗ Bà-la-môn. Đức Thánh này nói pháp cho chúng tôi, làm cho chúng tôi và vô lượng thiên tử cùng vô lượng thiên nữ đều chẳng thối chuyển nơi vô thượng Bồ đề.
Lại có mười ngàn Tự Tại thiên vương ở trên hư không rải thiên hoa, nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu khuất chúng tôi, bao nhiêu cung điện và đồ trang nghiêm đều tối như đống mực, làm cho chúng tôi không còn mến luyến, bèn cùng quyến thuộc đến chỗ Bà-la-môn. Đức Thánh này vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho chúng tôi được tự tại nơi tâm, được tự tại trong phiền não, được tự tại trong thọ sanh, được tự tại nơi nghiệp chướng, được tự tại nơi các tam-muội, được tự tại nơi những đồ trang nghiêm, được tự tại nơi thọ mạng, nhẫn đến được tự tại nơi tất cả Phật pháp.
Lại có mười ngàn Hóa Lạc thiên vương ở trong hư không trổi thiên nhạc cung kính cúng dường, nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu đến cung điện, đồ trang nghiêm và thể nữ của chúng tôi. Làm cho chúng tôi chẳng thọ dục lạc, chẳng cầu dục lạc, thân tâm nhu nhuyến. Chúng tôi liền cùng quyến thuộc đến chỗ của Bà-la-môn này. Đức Thánh này vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho thân tâm chúng tôi thanh tịnh, tâm được sáng sạch, tâm được thuần thiện, tâm nhu nhuyến, tâm hoan hỷ, nhẫn đến làm cho chúng tôi được thân thanh tịnh, thập lực thanh tịnh, sanh vô lượng thân cho đến được Phật thân, Phật ngữ, Phật thanh, Phật tâm thành tựu đầy đủ Nhất thiết chủng trí.
Lại có mười ngàn Đâu-suất thiên vương, thiên tử, thiên nữ và quyến thuộc ở trên hư không rưới những diệu hương cung kính đảnh lễ, nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân làm cho chư thiên chúng tôi và quyến thuộc không còn mến luyến cung điện của mình, đồng đến chỗ này nghe đức Thánh đây thuyết pháp. Có thể làm cho chúng tôi chẳng tham cảnh giới thiểu dục tri túc tâm sanh hoan hỷ, tâm được sung mãn phát sanh thiện căn, phát Bồ-đề tâm nhẫn đến viên mãn tất cả Phật pháp.
Lại có mười ngàn Đao-lợi chư thiên và quyến thuộc thiên tử, thiên nữ ở trên hư không rải hoa thiên mạn-đà-la cung kính cúng dường, nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, làm cho chư thiên chúng tôi chẳng mến luyến thiên âm nhạc, đồng đến chỗ này. Đức Thánh đây vì chúng tôi mà nói những pháp vô thường hư tan, làm cho chúng tôi bỏ rời những dục lạc, dứt trừ kiêu mạn, phóng dật, thích vô thượng Bồ đề.
Lại này Thiện nam tử! Lúc chúng tôi thấy đức Thánh đây, thời đỉnh núi Tu-di-chấn động sáu cách, chúng tôi kinh sợ, đồng phát tâm Bồ-đề kiên cố chẳng động lay.
Lại có mười ngàn long vương, như là Y-na-bạt-la long vương, Nan-đà Long vương, Ưu-ba-nan-đà Long vương… Ở trên hư không mưa hắc chiên đàn vô lượng, long nữ tấu thiên âm nhạc, rải thiên diệu hoa và thiên hương thủy cung kính cúng dường. Nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu khắp tất cả Long cung, làm cho long chúng khỏi sợ cát nóng, khỏi sợ kim sí điểu, trừ sân hận, thân mát mẻ, tâm không nhơ, nghe pháp liền tin hiểu, nhàm ghét loài rồng, chí thành sám hối nghiệp chướng, nhẫn đến phát tâm vô thượng Bồ-đề an trụ nơi Nhất thiết trí.
Lại có mười ngàn dạ-xoa vương ở trên hư không cung kính cúng dường Bà-la-môn này và Thiện Tài đồng tử mà nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, chúng tôi cùng quyến thuộc đều phát tâm từ mẫn đối với chúng sanh. Tất cả la-sát, cưu-bàn trà… cũng sanh lòng từ mẫn. Vì có tâm từ mẫn nên không não hại chúng sanh, đồng đến chỗ chúng tôi. Chúng tôi và đại chúng ấy không luyến mến cung điện của mình, đồng nhau đến chỗ này. Đức Thánh đây liền theo sở nghi mà thuyết pháp làm cho chúng tôi thâm tâm đều được an lạc. Lại làm cho vô lượng dạ xoa, la-sát, cưu bàn trà… phát tâm vô thượng Bồ-đề.
Lại có mười ngàn càn thát-bà vương ở trên hư không mà nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn đây dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu cung điện của chúng tôi, làm cho chúng tôi thọ bất tư nghì vô lượng khoái lạc. Vì thế chúng tôi đến chỗ này. Đức Thánh đây vì chúng tôi mà thuyết pháp làm cho chúng tôi được chẳng thối chuyển Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có mười ngàn a-tu-la vương ra khỏi đại hải ở giữa hư không duỗi đầu gối hữu chắp tay làm lễ mà nói rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân thời cung điện của chúng tôi và đại hải, đại địa đều chấn động, làm cho chúng tôi bỏ kiêu mạn phóng dật. Do đó chúng tôi đến chỗ này nghe pháp, rời bỏ siểm cuống, an trụ nhẫn địa kiên cố bất động, viên mãn thập lực.
Lại có mười ngàn ca-lâu-la vương, Dũng Lực Trì vương làm thượng thủ, đồng hóa làm thân ngoại đạo đồng tử ở trên không xướng rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa chiếu cung điện chúng tôi, tất cả đều chấn động, thảy đều kinh sợ. Do đó chúng tôi đồng đến chỗ này. Đức Thánh đây tùy nghi mà thuyết pháp cho chúng tôi, khiến chúng tôi tu tập đại từ, khen ngợi đại bi, qua khỏi biển sanh tử, ở trong sình lầy ái dục mà cứu vớt chúng sanh, khen Bồ đề tâm, khởi trí phương tiện, tùy sở nghi điều phục chúng sanh.
Lại có mười ngàn khẩn-na-la vương ở trong hư không xướng rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà-la-môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, thời cung điện của chúng tôi ở, cùng những cây đa-la, cây âm nhạc, cây diệu bảo, những lưới bảo linh, những dây lụa báu và những nhạc khí tự nhiên vang ra tiếng Phật, tiếng pháp và tiếng bất thối chuyển Bồ-tát Tăng, tiếng nguyện cầu vô thượng Bồ-đề, nói rằng: Phương đó, nước đó có Bồ tát đó phát Bồ-đề tâm. Phương đó, nước đó có Bồ-tát tu hành khổ hạnh, khó xả mà xả được, nhẫn đến thanh tịnh hạnh Nhất thiết trí. Phương đó, nước đó có Bồ-tát đó qua đạo tràng. Nhẫn đến phương đó nước đó có đức Như Lai đó làm Phật sự xong liền nhập Niết-bàn.
Này Thiện nam tử! Giả sử có người đem tất cả cỏ cây ở Diêm-phù-đề nghiền nát thành vi trần, có thể đếm biết được số vi trần này. Còn trong cung điện của chúng tôi, những cây đa-la nhẫn đến nhạc khí nói Bồ-tát danh, Như Lai danh, phát đại nguyện chỗ tu hành… không ai biết được ngằn mé.
Này Thiện nam tử! Vì chúng tôi được nghe tiếng Phật, tiếng pháp, tiếng Bồ-tát Tăng nên rất hoan hỷ, cùng nhau đến chỗ này, Đức Thánh này liền vì chúng tôi mà thuyết pháp. Làm cho chúng tôi và vô lượng chúng sanh được bất thối chuyển nơi Vô thượng Chánh đẳng Chánh giác.
Lại có vô lượng chư thiên Dục giới ở trên hư không dùng đồ cúng vi diệu cung kính cúng dường, xướng rằng:
Này Thiện nam tử! Lúc Bà la môn này dùng năm thứ lửa đốt thân, ánh sáng của lửa này chiếu sáng tất cả địa ngục A-tỳ. Những kẻ chịu khổ đều làm cho thôi dứt. Chúng tôi thấy ánh sáng lửa này liền sanh lòng tịnh tín. Do lòng tin nên thân địa ngục chết được sanh lên cõi trời. Nhớ ơn, nên chúng tôi đến đây cung kính chiêm ngưỡng đức Thánh này lòng không nhàm đủ. Đức Thánh đây vì chúng tôi mà thuyết pháp, làm cho vô lượng chúng sanh phát Bồ-đề tâm.
Lúc đó Thiện Tài đồng tử nghe pháp như vậy lòng rất hoan hỷ, xem Bà-la-môn Thắng Nhiệt là bậc chân thiện tri thức, cúi đầu kính lễ, xướng rằng:
Tôi sanh lòng bất thiện đối với đức Thánh thiện tri thức, ngưỡng mong đức Thánh cho tôi sám hối.
Khi Thiện Tài khởi nghi như thế, chung quanh có chư thiên cõi trời Phạm, chư thiên các cõi trời, các loài long thần, quỷ thần bát bộ… đều khuyến khích, ca ngợi Bà-la-môn Thắng Nhiệt là chân thiện tri thức. Đó là nhờ phát Bồ-đề tâm dũng mãnh, nên khi gặp chướng nạn liền được sức trợ lực, khiến Thiện Tài đủ duyên tiến tới. Nhận chân lẽ thật rồi, Thiện Tài thành tâm sám hối.
Thắng Nhiệt Bà-la-môn vì Thiện Tài mà nói kệ rằng:
Nếu có chư Bồ-tát
Thuận theo thiện tri thức
Tất cả không nghi sợ
An trụ tâm chẳng động.
Nên biết người như vậy
Tất được lợi quảng đại
Ngồi dưới cây bồ đề
Thành bậc Vô thượng giác.
Người nào đối với thiện tri thức tâm không còn nghi ngờ, người đó dễ đến được cội bồ-đề thành Phật đạo.
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử liền leo lên núi đao tự nhảy vào đống lửa. Khi rơi xuống giữa chừng, Thiện Tài liền chứng được Bồ-tát thiện trụ tam-muội. Vừa chạm ngọn lửa, Thiện Tài lại chứng được Bồ-tát tịch tịnh lạc thần thông tam-muội.
Thiện Tài leo lên núi đao, rơi xuống giữa chừng liền được Bồ-tát thiện trụ tam-muội. Như Tỳ-kheo Thiện Trụ đi trên hư không, tam-muội Thiện trụ này cũng vậy, Leo lên núi đao nghĩa là dùng trí Bát-nhã vượt lên tất cả tà kiến, tất cả được vô ngại, vô sở trụ nên gọi là Thiện trụ.
Vừa chạm ngọn lửa, liền được tịch tịnh lạc thần thông tam-muội, dứt hết tất cả phiền não nên gọi là vui vắng lặng thanh tịnh. Đó là hai pháp mà Thiện Tài chứng được. Như thế leo lên núi đao nhảy vào đống lửa nghĩa là sự tu hành đã vượt qua tà kiến, vượt qua phiền não thiêu đốt, chứng được hai pháp tam-muội thần thông.
Thiện Tài thưa: Bạch đức Thánh! Núi đao và đống lửa này, thân tôi vừa chạm đến thời được an ổn khoái lạc.
Pháp tu của Bồ-tát tưởng như rất kỳ lạ, thật sự là dùng hình ảnh để chứng minh. Nói đến tà kiến thì tượng trưng bằng những núi đao chơm chởm, nói về phiền não thì tượng trưng bằng những đống lửa cháy hừng hực, nếu người vượt qua hai cái đó liền được an lạc, giải thoát. Chữ tà kiến không phải chỉ là tin theo ngoại đạo, mà còn thấy bên này bên kia, còn thấy có hai phải quấy tốt xấu.. đều gọi là tà kiến. Dứt tất cả hai bên được vào trung đạo gọi là Thiện trụ. Dùng trí Bát-nhã dẹp sạch những cái thấy thiên lệch gọi là được Thiện trụ tam-muội.
Thắng Nhiệt Bà-la-môn nói:
Này Thiện nam tử! Ta chỉ được môn Bồ-tát vô tận luân giải thoát. Còn như ngọn lửa đại công đức của chư đại Bồ-tát có thể đốt cháy kiến hoặc của tất cả chúng sanh không để thừa, tất được bất thối chuyển, tâm vô cùng tận, tâm không giải đãi, tâm không khiếp nhược, phát tâm kiên cố như kim cang tạng, tâm chóng tu các công hạnh không trì hưỡng nguyện như phong luân trì khắp tất cả đại địa tinh tấn đều không thối chuyển… Ta thế nào biết hết được, nói hết được công đức hạnh đó.
Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành tên là Sư Tử Phấn Tấn, trong thành ấy có một đồng nữ tên là Từ Hạnh. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo?
Lúc đó Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Thắng Nhiệt Bà-la-môn, hữu nhiễu vô lượng vòng từ tạ mà di.
Thiện Tài đối với thiện tri thức sanh lòng rất tôn trọng. Sanh trí hiểu quảng đại thanh tịnh. Thường nhớ Đại thừa chuyên cầu Phật trí. Nguyện thấy chư Phật, quán pháp cảnh giới. Trí vô ngại thường hiện tiền. Quyết định biết rõ thật tế của các pháp, thường trụ tế, tất cả tam thế những sát-na tế, như hư không tế, vô nhị tế, tất cả pháp vô phân biệt tế, tất cả nghĩa vô chướng ngại tế, tất cả kiếp vô thất hoại tế, tất cả Như Lai vô tế chi tế. Với tất cả Phật tâm vô phân biệt. Phá những lưới tưởng. Lìa những chấp trước. Chẳng lấy chúng hội đạo tràng của chư Phật, cũng chẳng lấy cõi nước thanh tịnh của chư Phật. Biết các chúng sanh đều không có ngã. Biết tất cả tiếng thảy đều như vang. Biết tất cả sắc thảy đều như bóng.
Thiện Tài đi lần về phương Nam đến thành Sư Tử Phấn Tấn tìm Từ Hạnh đồng nữ. Nghe nói Đồng nữ là con gái của vua Sư Tử Tràng, năm trăm đồng nữ hầu hạ, ở điện Tỳ-lô-giá-na Tạng, ngồi trên tòa Long Thắng Chiên-đàn Túc Kim Tiền Võng Thiên Y mà thuyết diện pháp.
Đến đây là quả vị thứ mười trong Thập trụ gọi là Quán đảnh trụ, phương pháp tu là Trí ba-la-mật. Theo phong tục Ấn Độ khi thái tử sắp lên ngôi, vua cha đem bình nước rưới lên đầu làm lễ quán đảnh truyền ngôi Tương tự, quả vị Quán đảnh trụ là kết thúc bậc Thập trụ để bước qua Thập hạnh, như thái tử sắp lên ngôi vua. Pháp tu ở đây lấy trí tuệ làm trên, các pháp khác làm phụ, nên đây nói Đồng nữ này là con vua Sư Tử Tràng ở trong thành Sư Tử Phấn Tấn. Trí tuệ hay phá được các tà kiến, phá chấp sai lầm của ngoại đạo, ví như sự dũng mãnh của sư tử khiến các thú đều nép phục. Nếu Bồ-tát chỉ dùng trí tuệ thì chưa đủ công hạnh, phải có từ bi nên hiện thân đồng nữ tên Từ Hạnh. Vua cha tượng trưng trí tuệ, con gái tượng trưng từ bi, ý nghĩa đặt nặng về trí.
Thiện Tài đến cửa vương cung, thấy vô lượng đại chúng đi vào cung bèn hỏi: Các ngài hôm nay vào vương cung có việc gì thế?
Đại chúng đáp: Chúng tôi muốn đến nghe Từ Hạnh đồng nữ thuyết diệu pháp.
Nghe xong, Thiện Tài cũng đi vào vương cung, thấy điện Tỳ-lô-giá-na Tạng, đất bằng pha lê, cột bằng lưu ly, vách bằng kim cang, tường rào bằng vàng diêm-phù đàn, trăm ngàn ánh sáng làm cửa nẻo, trang nghiêm với vô số báu, ma-ni. Gương bảo tạng ma-ni trang nghiêm giáp vòng. Dùng ma-ni bảo tối thượng ở thế gian để trang sức. Vô số lưới báu giăng che phía trên. Trăm ngàn linh vàng vang tiếng vi diệu.
Từ Hạnh đồng nữ da màu huỳnh kim, mắt tím biếc, tóc xanh biếc, dùng phạm âm thanh để thuyết pháp.
Thiện Tài đồng tử thấy xong, đảnh lễ chân Từ Hạnh đồng nữ hữu nhiễu vô số vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo. Xin vì tôi mà giảng giải.
Đồng nữ bảo Thiện Tài rằng: Này Thiện nam tử Ngươi nên quán sát cung điện trang nghiêm của ta đây.
Thiện Tài vâng lời đảnh lễ, quán sát khắp cung điện. Thấy trong mỗi vách, mỗi cột, mỗi gương, mỗi tướng, mỗi hình, mỗi ma-ni bảo, mỗi đồ trang nghiêm, mỗi linh, mỗi cây báu, mỗi hình tượng báu, mỗi bảo anh lạc đều hiện pháp giới tất cả Như Lai từ sơ phát tâm tu hạnh Bồ-tát thành mãn đại nguyện, đầy đủ công đức, thành Đẳng chánh giác, chuyển diệu pháp luân, nhẫn đến thị hiện nhập Niết-bàn. Tất cả ảnh tượng như vậy đều hiện rõ cả. Như trong nước thanh tịnh đứng lặng, thấy khắp hư không nhật nguyệt tinh tú. Đây là do sức thiện căn trong đời quá khứ của Từ Hạnh đồng nữ.
Nhìn mỗi đồ vật trang nghiêm trong cung điện đều thấy tất cả ảnh tượng của chư Phật từ sơ phát tâm đến nhập Niết-bàn. Đây là tượng trưng trí Bát-nhã. Tất cả chư Phật Bồ-tát từ sơ phát tâm cho đến thành Phật, thuyết pháp giáo hóa độ sanh nhập Niết-bàn đều không rời biển trí. Trí tuệ là gốc của tất cả chư Phật, trí tuệ là tiếng nói của tất cả chư Phật, nếu không có trí tuệ thì chư Phật không bao giờ thành Phật.
Thiện Tài ghi nhớ những tướng chư Phật đã được thấy, đứng chắp tay chiêm ngưỡng đồng nữ.
Đồng nữ bảo Thiện Tài rằng:
Này Thiện nam tử! Đây là môn Bát-nhã ba-la-mật Phổ trang nghiêm. Ta ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa chư Phật cầu được pháp này. Chư Phật Như Lai đều dùng môn khác nhau làm cho ta nhập môn Bát-nhã ba-la-mật Phổ trang nghiêm này. Pháp của một đức Phật diễn nói, chư Phật khác chẳng nói lặp lại.
Thiện Tài thưa:
Bạch đức Thánh! Cảnh giới của môn Bát-nhã ba-la-mật Phổ trang nghiêm này như thế nào?
Từ Hạnh nói:
Này Thiện nam tử! Ta nhập môn Bát-nhã ba-la-mật Phổ trang nghiêm này, tùy thuận xu hướng tư duy quán sát ghi nhớ phân biệt liền được phổ môn đà-la-ni, trăm vạn vô số môn đà-la-ni đều hiện tiền.
Như là:Môn Phật sát đà-la-ni,môn Phật đà-la-ni, môn pháp đà-la-ni, môn chúng sanh đà-la-ni, môn quá khứ đà-la-ni, môn vị lai đà-la-ni, môn hiện tại đà-la-ni, môn thường trụ tế đà-la-ni, môn phước đức đà-la-ni, môn phước đức trợ đạo cụ đà-la-ni, môn trí tuệ đà-la-ni, môn trí tuệ trợ đạo cụ đà-la-ni, môn chư nguyện đà-la-ni, môn phân biệt chư nguyện đà-la-ni, môn tập chư hạnh đà-la-ni, môn thanh tịnh hạnh đà-la-ni, môn viên mãn hạnh đà-la-ni, môn nghiệp đà-la-ni, môn nghiệp bất thất hoại đà-la-ni, môn nghiệp lưu chú đà-la-ni, môn nghiệp sở tác đà-la-ni, môn xả ly ác nghiệp đà-la-ni, môn tu tập chánh nghiệp đà-la-ni, môn nghiệp tự tại đà-la-ni, môn thiện hạnh đà-la-ni, môn tam-muội đà-la-ni, môn tùy thuận tam-muội đà-la-ni, môn quán sát tam-muội đà-la-ni, môn tam-muội cảnh giới đà-la-ni, môn tùng tam-muội khởi đà-la-ni, môn thần thông đà-la-ni, môn tâm hải đà-la-ni, môn chủng chủng tâm đà-la-ni, môn trực tâm đà-la-ni, môn chiếu tâm trù lâm đà-la-ni, môn điều tâm thanh tịnh đà-la-ni, môn đà-la-ni biết chúng sanh từ đâu sanh, môn đà-la-ni biết chúng sanh phiền não hiện hành, môn đà-la-ni biết chúng sanh tập khí, môn đà-la-ni biết phiền não phương tiện, môn đà-la-ni biết chúng sanh giải, môn đà-la-ni biết chúng sanh hạnh, môn đà-la-ni biết chúng sanh hạnh chẳng đồng, môn đà-la-ni biết chúng sanh tánh, môn đà-la-ni biết chúng sanh dục, môn đà-la-ni biết chúng sanh tưởng, môn đà-la-ni thấy khắp mười phương, môn thuyết pháp đà-la-ni, môn đại bi đà-la-ni, môn đại từ đà-la-ni, môn tịch tịnh đà-la-ni, môn ngôn ngữ đạo đà-la-ni, môn phương tiện phi phương tiện đà-la-ni, môn tùy thuận đà-la-ni,môn sai biệt đà-la-ni, môn phổ nhập đà-la-ni, môn vô ngại tế đà-la-ni, môn phổ biến đà-la-ni,môn Phật pháp đà-la-ni,môn Bồ-tát pháp đà-la-ni, môn Thanh văn pháp đà-la-ni, môn Độc giác pháp đà-la-ni, môn thế gian pháp đà-la-ni, môn thế giới thành đà-la-ni, môn thế giới hoại đà-la-ni, môn thế giới trụ đà-la-ni, môn tịnh thế giới đà-la-ni, môn cấu thế giới đà-la-ni, môn đà la ni nơi cấu thế giới hiện tịnh, môn đà-la-ni nơi tịnh thế giới hiện tịnh, môn thuần cấu thế giới đà-la-ni, môn thuần tịnh thế giới đà-la-ni, môn bất bình thản thế giới đà-la-ni, môn bình thản thế giới đà-la-ni,môn phúc thế giới đà-la-ni, môn nhân-đà-la võng thế giới đà-la-ni, môn thế giới chuyển đà-la-ni, môn đà-la-ni biết nương nơi tưởng mà an trụ, môn đà-la-ni tế vào thô, môn đà-la-ni thô vào tế, môn thấy chư Phật đà-la-ni, môn phân biệt thân Phật đà-la-ni, môn Phật quang minh trang nghiêm võng đà-la-ni, môn Phật viên mãn âm đà-la-ni, môn Phật pháp luân đà-la-ni, môn thành tựu Phật pháp luân đà-la-ni, môn sai biệt Phật pháp luân đà-la-ni, môn vô sai biệt Phật pháp luân đà-la-ni, môn giải thích Phật luân đà-la-ni, môn chuyển Phật pháp luân đà-la-ni, môn năng tác Phật sự đà-la-ni, môn phân biệt Phật chúng hội đà-la-ni, môn nhập Phật chúng hội hải đà-la-ni, môn phổ chiếu Phật lực đà-la-ni, môn chư Phật tam-muội đà-la-ni, môn chư Phật tam muội tự tại dụng đà-la-ni, môn chư Phật sở trụ đà-la-ni, môn chư Phật sở trì đà-la-ni, môn chư Phật biến hóa đà-la-ni, môn chư Phật tri chúng sanh tâm hành đà-la-ni, môn chư Phật thần thông biến hiện đà la ni, môn dà-la-ni ở Đâu-suất thiên cung nhẫn đến nhập Niết-bàn, môn đà-la-ni lợi ích vô lượng chúng sanh, môn đà la ni nhập pháp thậm thâm, môn đà la ni nhập pháp vi diệu, môn Bồ-đề tâm đà-la-ni, môn khởi Bồ-đề tâm đà-la-ni, môn trợ Bồ-đề tâm đà-la-ni, môn chư nguyện đà-la-ni, môn chư hạnh đà-la-ni, môn thần thông đà-la-ni, môn xuất ly đà-la-ni, môn tổng trì thanh tịnh đà-la-ni, môn trí luận thanh tịnh đà-la-ni, môn trí tuệ thanh tịnh đà-la-ni, môn Bồ-đề vô lượng đà-la-ni, môn tự tâm thanh tịnh đà-la-ni.
Đồng nữ Từ Hạnh tu pháp Bát-nhã ba-la-mật tức là trí tuệ cứu cánh. Đoạn trước, vị thiện tri thức thứ sáu là Tỳ-kheo Hải Tràng được tam-muội tên “Bát-nhã ba-la-mật cảnh giới thanh tịnh quang minh”, toàn thân ngài đều hiện cảnh giới tứ thánh lục phàm. Hai vị đều tu về Bát-nhã, đều hiện tướng trang nghiêm nơi thân, nơi cung điện. Nơi đồng nữ Từ Hạnh lại được pháp đà-la-ni Tổng trì, ghi nhớ tất cả pháp môn. Để thấy rằng sức trí tuệ Bát-nhã trên đây vượt hơn sức trí tuệ Bát-nhã của phần thứ sáu ở trước.
Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn Bát-nhã ba-la-mật Phổ trang nghiêm. Còn như chư đại Bồ-tát tâm lượng quảng đại khắp cõi hư không nhập vào pháp giới phước đức thành mãn, an trụ pháp xuất thế, xa hạnh thế gian, trí nhãn thanh tịnh xem khắp pháp giới. Tuệ tâm quảng đại như hư không. Thủy đều thấy rõ tất cả cảnh giới. Được bậc vô ngại tạng đại quang minh. Khéo hay phân biệt tất cả pháp nghĩa. Làm công hạnh thế gian mà chẳng nhiễm thế pháp. Hay lợi ích thế gian chẳng bị thế gian làm hoại. Khắp làm y chỉ cho tất cả thế gian. Biết khắp tâm hành của tất cả thế gian, tùy sở nghi mà vì họ thuyết pháp. Trong tất cả thời gian hằng được tự tại. Như thế thời ta làm sao biết được nói được hết công đức hạnh đó.
Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một nước tên là Tam Nhãn. Xứ đó có Tỳ-kheo tên là Thiện Kiến. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân của Từ Hạnh đồng nữ, hữu nhiễu vô số vòng, luyến mộ chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Bấy giờ Thiện Tài suy gẫm hạnh của Bồ-tát an trụ rất sâu, pháp của Bồ-tát chứng rất sâu, chỗ của Bồ-tát nhập rất sâu, suy gẫm chúng sanh vi tế trí rất sâu, thế gian nương nơi tưởng mà trụ rất sâu, hạnh của chúng sanh làm rất sâu, tâm lưu trú của chúng sanh rất sâu, chúng sanh như quang ảnh rất sâu, chúng sanh danh hiệu rất sâu, chúng sanh ngôn thuyết rất sâu. Suy gẫm trang nghiêm pháp giới rất sâu, gieo trồng nghiệp hạnh rất sâu, nghiệp trang sức thế gian rất sâu.
Thiện Tài đã tham học trải qua mười vị thiện tri thức, tiến lên mười quả vị, viên mãn Thập trụ. Đến vị thiện tri thức kế tiếp, bắt đầu bước lên Thập hạnh.
Đây là bậc thứ nhất trong Thập hạnh, gọi là Hoan hỷ hạnh, dùng pháp tu bố thí. Hạnh hoan hỷ có được từ nơi tâm thanh tịnh nên tượng trưng bằng một vị Tỳ-kheo nhỏ tuổi, Ngài được pháp Giải thoát tùy thuận đăng, nghĩa là tùy thuận theo tâm chúng sanh để giúp họ giải thoát. Chúng sanh mến thích nhất là sự bố thí, Bồ-tát bố thí khiến chúng sanh vui ưa rồi sau đó dạy họ tu giải thoát.
Thiện Tài đi lần qua phương Nam đến nước Tam Nhãn tìm Tỳ-kheo Thiện Kiến.
Tam nhãn là pháp nhãn, trí nhãn và tuệ nhãn. Thiện Tài đã thành tựu pháp quán trí tuệ ở bậc thứ mười Quán đảnh trụ. Do nhân này nên đưa đến quả bước lên Sơ hoan hỷ hạnh, tượng trưng bằng hình ảnh Thiện Tài đến nước Tam Nhãn. Vì đầy đủ mắt pháp, mắt trí, mắt tuệ nên vị thiện tri thức khéo thấy tất cả, không ngờ vực nghi lầm, không dính mắc hữu vô, tên là Thiện Kiến.
Thấy Tỳ-kheo ấy đi kinh hành trong rừng, tuổi trẻ dung mạo xinh đẹp, tóc xanh biếc xoáy về phía hữu không rối, đảnh đầu có nhục kế, da màu huỳnh kim, cổ có ba ngấn, trán rộng bằng thẳng, mắt dài rộng như thanh liên hoa, môi miệng đỏ sạch như trái tần-bà, ngực có chữ “Vạn”, bảy chỗ bằng đầy, cánh tay thon dài, ngón có màng lưới, trong bàn tay bàn chân có kim cang luân, thân đẹp lạ như trời Tịnh Cư, trên dưới ngay thẳng như cây ni-câu-đà, những đại nhân tướng và tùy hình hảo đều viên mãn cả, nghiêm sức như núi Tuyết, mắt nhìn chẳng nháy, viên quang một tầm, trí tuệ rộng rãi như đại hải, nơi các cảnh giới tâm không bị động, hoặc trầm hoặc cử, hoặc trí hoặc phi trí, tất cả động chuyển hý luận đều trừ hết. Được cảnh giới bình đẳng của Phật. Lòng đại bi giáo hóa chúng sanh không tạm bỏ. Vì muốn lợi lạc tất cả chúng sanh. Vì muốn khai thị pháp nhãn Như Lai. Vì noi theo đường của Như Lai đi, chẳng chậm chẳng mau, đi kinh hành kỹ chắc.
Bố thí không phải chỉ một mức độ, mà tiến dần từ thấp lên cao, như đến đây chú trọng sự lợi ích của chúng sanh, tùy thuận tâm người để giúp người thoát khổ, là pháp bố thí cao tột. Vì thế đến bậc Thập địa, Thập hồi hướng vẫn tu Thập độ ba-la-mật nhưng pháp tu rốt ráo vi diệu hơn.
Như người tu dù mới vào đạo hay đã tu tập nhiều năm, điều cốt yếu là biết nhận mặt tham sân si, dứt trừ tham sân si, cho đến suốt đời tu cũng chỉ một việc đó thôi. Nhưng tùy thời gian huân tu mà cấp độ tiến triển khác nhau. Khi chưa biết tu thì đắm nhiễm danh lợi tài sắc, mới bắt đầu tu thì lo chặn đứng nó lại, tuy cũng có nhiễm nhưng dần dần gỡ ra, đó là giai đoạn một. Sang giai đoạn hai, tu lâu thuần thục, tâm đối với ngũ dục không nhiễm nhưng còn động còn dính một chút, biết nó có mặt mà mình vẫn tỉnh. Giai đoạn ba, ngũ dục không còn lôi kéo được, tâm an trụ vững vàng. Như vậy cũng đối phó với tham sân si, ngũ dục lục trần nhưng chúng ta phải công phu dai dẳng miên mật cho đến thành Phật mới dứt sạch, mới an ổn làm lợi ích chúng sanh.
Hạnh bố thí cũng vậy, tập dần từ dễ đến khó. Ban đầu bố thí ngoại tài như tiền của vật dụng của mình, cao hơn một bậc là bố thí vợ con… đến bố thí nội tài như đầu mắt tủy não… chúng sanh cần thì xả thí không lẩn tiếc. Việc này tuy khó nhưng Bồ-tát vẫn vui lòng xả thí. Bố thí pháp là đem Phật pháp giảng dạy cho chúng sanh học hiểu. Cuối cùng vi tế khó thực hành là bố thí tâm, Nhà thiền gọi là xả ly, tất cả tâm vọng tưởng buông hết không nghĩ đến mình đến người. Đó là bố thí cứu cánh, là đại thí.
Như vậy, chỉ một hạnh bố thí mà tu suốt kiếp cũng không xong, một hạnh này gồm đủ các hạnh, nhấn mạnh chỗ cho đi, buông xả. Vì thế đây đến bậc Thập hạnh, đầu tiên tu hạnh bố thí, tượng trưng bằng thân tướng đẹp đẽ của Tỳ-kheo Thiện Kiến. Ý diễn tả sau khi trải qua Thập trụ, công đức tương đối viên mãn nên thân thể tròn đầy có ba mươi hai tướng tốt, trí tuệ thông đạt, nhìn thấy tất cả cảnh giới Phật đều bình đẳng. Ngài đi kinh hành chậm rãi vững chắc, chung quanh có long thiên hộ pháp ủng hộ, chủ các phương thần, người thì dẫn đường, người thì đỡ chân, người thì phóng hào quang, người thì trải thân rưới hoa rất là rực rỡ.
Vô lượng thiên, long, bát bộ cùng nhân, phi nhân vây quanh sau trước. Chủ phương thần theo phương hồi chuyển dẫn đường ở trước. Túc Hành thần cầm bảo liên hoa đỡ chân Tỳ-kheo. Vô Tận Quang thần phóng quang phá tối. Diêm phù Tràng Lâm thần rải những hoa đẹp. Bất Động Tạng Địa thần hiện những bảo tạng. Phổ Quang Minh Hư Không thần trang nghiêm hư không. Thành Tựu Đức Hải thần mưa ma-ni bảo vô cấu tạng. Tu-di Sơn thần đầu đảnh kính lễ cúi mình hiệp chưởng. Vô Ngại Lực Phong thần rải hoa đẹp thơm. Xuân Hòa Chủ dạ thần trang nghiêm nơi thân cả mình mọp xuống đất. Thường Giác Chủ thần cầm tràng ma-ni chiếu khắp các phương, ở giữa hư không phóng đại quang minh.
Những hình ảnh trang nghiêm long trọng như thế cho thấy khi đức hạnh đầy đủ thì đi đến đâu tất cả phước đức đều hiện bày.
Thiện Tài đồng tử đến chỗ Thiện Kiến Tỳ-kheo đảnh lễ chắp tay cúi mình thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, cầu Bồ-tát hạnh. Tôi nghe đức Thánh hay khéo khai thị những đạo Bồ-tát. Xin vì tôi mà dạy thế nào học Bồ-tát hạnh? Thế nào tu Bồ-tát đạo?
Thiện Kiến Tỳ-kheo nói:
Này Thiện nam tử! Ta tuổi còn trẻ, xuất gia lại chưa được lâu. Trong đời này, ta tịnh tu phạm hạnh ở chỗ ba mươi sáu hằng hà sa đức Phật. Hoặc có chỗ đức Phật, ta tu một ngày một đêm. Hoặc có chỗ đức Phật, ta tu bảy ngày bảy đêm. Hoặc có chỗ đức Phật, ta tu nửa tháng hoặc một tháng, một năm, trăm năm, muôn năm, ức năm, na-do-tha năm, nhẫn đến hoặc có chỗ đức Phật ta tu phạm hạnh bất khả thuyết bất khả thuyết năm. Hoặc một tiểu kiếp, hoặc nửa đại kiếp, hoặc một đại kiếp, trăm đại kiếp nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết đại kiếp nghe diệu pháp và thọ hành giáo pháp của chư Phật, trang nghiêm thệ nguyện, nhập chỗ sở chứng, tịnh tu công hạnh, đầy đủ sáu môn ba-la-mật hải.
Cũng thấy chư Phật đó thành đạo thuyết pháp, mỗi mỗi sai biệt không tạp loạn, trụ trì di giáo đến diệt tận. Cũng biết chư Phật đó trước kia phát nguyện, dùng nguyện lực tam-muội nghiêm tịnh tất cả Phật độ. Dùng sức tam-muội nhập tất cả hạnh mà tịnh tu tất cả Bồ-tát hạnh. Dùng sức Phổ Hiền thừa xuất ly mà thanh tịnh tất cả Phật ba-la-mật.
Lại này Thiện nam tử! Lúc ta kinh hành, trong một niệm, tất cả mười phương đều hiện tiền, vì trí tuệ thanh tịnh vậy. Trong một niệm, tất cả thế giới đều hiện tiền, vì đi qua bất khả thuyết bất khả thuyết thế giới vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật độ thảy đều nghiêm tịnh, vì thành tựu sức đại nguyện vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh sai biệt hạnh thảy đều hiện tiền, vì đầy đủ mười trí lực vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết thân Phật thanh tịnh đều hiện tiền, vì thành tựu Phổ Hiền hạnh nguyện lực vậy. Trong một niệm cung kính cúng dường bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số Như Lai, vì thành tựu tâm nhu nhuyễn nguyện lực cúng dường Như Lai vậy. Trong một niệm lãnh thọ bất khả thuyết bất khả thuyết Như Lai pháp, vì được chứng vô số pháp sai biệt trụ trì pháp luân đà-la-ni lực vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Bồ-tát hạnh hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực hay tịnh tu tất cả hạnh như nhân đà la võng. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết những tam muội hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực nơi một môn tam muội nhập tất cả môn tam-muội đều khiến thanh tịnh, Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết chư căn hải đều hiện tiền, vì được nguyện lực rõ biết chư căn tế, ở trong một căn thấy tất cả căn vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số thời gian thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực trong tất cả thời gian chuyển pháp luân, chúng sanh giới tận nhưng pháp luân vô tận vậy. Trong một niệm, bất khả thuyết bất khả thuyết tất cả tam thế hải thảy đều hiện tiền, vì được nguyện lực trí quang minh biết rõ tất cả phần vị tam thế, trong tất cả thế giới vậy.
Trong một niệm, tất cả mười phương thế giới, chúng sanh, thân Phật… đều hiện tiền. Tại sao? Thông thường chúng ta cho một niệm là một khởi nghĩ, chư Bồ-tát tâm hằng nhất như nên cả ngày chỉ có một niệm, cả đời hay trải vô số kiếp cũng chỉ một niệm hằng nhất như, luận Đại Thừa Khởi Tín gọi là niệm chân như. Không phải lúc đó không ngơ, mà một niệm tức nhất chân pháp giới, nói khác hơn một niệm trùm tất cả, tất cả đều nằm trong một niệm.
Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Bồ-tát tùy thuận đăng này. Còn như chư đại Bồ-tát như kim cang đăng ở nhà Như Lai chân chánh thọ sanh, thành tựu đầy đủ mạng căn bất tử, thường thắp trí đăng không tắt mất. Thân của các ngài kiên cố không bị chướng hoại, hiện thân sắc tướng như huyễn, như pháp duyên khởi vô lượng sai biệt, tùy tâm chúng sanh mỗi mỗi thị hiện hình mạo sắc tướng, trong đời không gì sánh bằng, tên độc, hỏa tai không hại được. Như núi kim cang không ai phá hư được. Hàng phục tất cả chúng ma ngoại đạo. Thân các ngài đẹp tốt như núi chân kim. Ở trong nhân thiên rất là thù đặc. Tiếng tốt rộng lớn không ai chẳng nghe biết. Xem các thế gian đều đối trước mắt. Diễn pháp tạng sâu như biển vô tận. Phóng đại quang minh chiếu khắp mười phương.
Nếu có ai thấy chư đại Bồ-tát này thời phá tất cả núi lớn chướng ngại, thời nhổ tất cả gốc bất thiện, thời khiến gieo trồng gốc lành quảng đại. Những bậc như vậy rất khó thấy được rất khó xuất hiện thế gian. Ta làm sao biết được, nói được công đức hạnh đó.
Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một nước tên là Danh Văn. Trong bãi sông của xứ đó có một đồng tử tên là Tự Tại Chủ. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo?
Bấy giờ Thiện Tài đồng tử vì muốn rốt ráo hạnh Bồ-tát dũng mãnh thanh tịnh. Muốn được Bồ-tát đại lực quang minh. Muốn tu những hạnh công đức vô thắng vô tận của Bồ-tát. Muốn viên mãn đại nguyện kiên cố của Bồ-tát. Muốn thành thâm tâm quảng đại của Bồ-tát, Muốn trì vô lượng thắng hạnh của Bồ-tát. Với Bồ-tát phát tâm không nhàm đủ. Nguyện nhập tất cả công đức của Bồ-tát. Muốn thường nhiếp ngự tất cả chúng sanh. Muốn vượt khỏi rừng rậm hoang vu sanh tử. Với các thiện tri thức thường thích thấy nghe, thờ phụng cúng dường không nhàm đủ. Thiện Tài đảnh lễ nơi chân Thiện Kiến Tỳ-kheo, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Thiện Tài đồng tử thọ giáo nơi Thiện Kiến Tỳ-kheo, nhớ nghĩ thọ trì suy gẫm tu tập biết rõ quyết định, được ngộ nhập pháp môn đó.
Đến đây, Thiện Tài được giới thiệu tham học với vị thiện tri thức thứ mười hai, trụ bậc Nhiêu Ích hạnh, pháp tu là trì giới. Về phần giữ giới, Thanh văn giới gọi là chỉ trì tác phạm, nghĩa là khi dừng tội lỗi gọi là trì giới, khi tạo tội lỗi gọi là phạm giới. Bồ-tát giới thì dừng là phạm, tạo tác là trì. Bồ-tát nếu không làm lợi ích chúng sanh xem như là phạm giới, làm lợi ích tất cả chúng sanh là trì giới. Nên đây gọi Nhiêu Ích hạnh, nói đủ là Nhiêu ích hữu tình giới, nghĩa là vâng giữ giới làm lợi ích chúng hữu tình.
Chúng thiên, long, dạ-xoa, càn thát bà vây quanh trước sau đi theo Thiện Tài đồng tử.
Đến nước Danh Văn, Thiện Tài tìm Tự Tại Chủ đồng tử. Thấy Đồng tử này ở trên bãi sông cùng mười ngàn đồng tử gom cát để chơi.
Thiện Tài đã tiến lên mười hai bậc, được chút phần công đức nên khi đi có Bát bộ long thiên ủng hộ. Đến nước Danh Văn thấy đồng tử Tự Tại Chủ đang gom cát từng đống để chơi. Tại sao có hiện tượng này? Đây là hạnh trì giới bằng cách làm lợi ích chúng sanh. Muốn như thế phải thông các toán số, các pháp của thế gian, Đồng tử này gom cát để làm phép tính toán số, Bậc thiện tri thức phải thông hiểu toán số, rành rẽ kỹ nghệ thế gian mới vào đời lợi sanh. Pháp tu trì giới này rất tự tại không câu thúc nên gọi là đồng tử Tự Tại Chủ.
Thiện Tài đến đảnh lễ chân Tự Tại Chủ đồng tử hữu nhiễu vô lượng vòng, cung kính chắp tay thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Xin đức Thánh giảng nói cho.
Tự Tại Chủ đồng tử nói:
Này Thiện nam tử! Thuở xưa, ta ở chỗ Văn-thù- sư-lợi đồng tử học những pháp thơ, số, toán, ấn… liền được ngộ nhập nhất thiết công xảo thần thông trí pháp môn.
Ta nhân pháp môn này nên được biết những pháp thơ, số, toán, ấn giới xứ ở thế gian, cũng có thể chữa lành tất cả những bệnh phong điên ốm gầy quỷ mị dựa…
Đó là do từ Căn bản trí đạt được Sai biệt trí, thấu được tất cả pháp môn công xảo làm lợi ích tất cả hữu tình.
Nếu học kinh mà không thông hiểu, trở thành mê tín đi lạc đường tà, Đây nói rõ Bồ-tát học phép trị bệnh, có thể chữa lành bệnh phong điên, ốm gầy, quỷ mị dựa… Bệnh điền là điên đảo hiểu sai sự thật, trái lẽ phải, Bồ-tát đưa chúng sanh về chánh kiến nên gọi là trị bệnh điên. Bệnh ốm gầy, quỷ mị… Ốm gầy là người không bố thí, lòng tham lam bỏn sẻn luôn tích chứa không bao giờ đủ. Quỷ mị là những người dua dối, lừa gạt, phỉnh nịnh. Bồ-tát dùng trí tuệ, tùy bệnh chúng sanh mà cho thuốc, nên đều có thể trị hết.
Cũng có thể tạo lập thành ấp, tụ lạc, vườn rừng, đền đài, cung điện, nhà cửa, cũng khéo điều luyện những tiên dược, cũng khéo kinh doanh tất cả sự nghiệp ruộng nương buôn bán, lấy bỏ tiến thối đều đúng sở nghi.
Bồ-tát đầy đủ công xảo minh khéo lợi ích chúng sanh.
Ta lại khéo phân biệt biết thân tướng chúng sanh, làm lành dữ, sẽ sanh cõi lành, sẽ sanh cõi ác. Người này đáng được đạo Thanh văn thừa, người này đáng được đạo Duyên giác thừa, người này đáng nhập Nhất thiết trí địa. Những sự như vậy thảy đều biết được và cũng làm cho chúng sanh học tập những pháp này tăng trưởng quyết định rốt ráo thanh tịnh.
Bồ-tát biết được tất cả căn tánh chúng sanh, giảng dạy pháp môn phù hợp để làm lợi ích cho họ. Như thế là sự truyền giới của Bồ-tát.
Này Thiện nam tử! Ta cũng biết Bồ-tát toán pháp. Như là một trăm lạc-xoa làm một câu-chi.
Một lạc-xoa theo Phật học từ điển là mười vạn, một trăm lạc-xoa làm một câu-chi là một trăm lần mười vạn.
Câu-chi lần câu-chi làm một a-giu-đa. A-giu-da lần a-giu-đa làm một na-do-tha. Na-do-tha lần na-do-tha làm một tần-bà-la. Tần-bà-la lần tần-bà-la làm một căng-yết-la. Nói rộng đến ưu-bát-la lần ưu-bát-la làm một ba đầu-ma. Ba-đầu-ma lần ba đầu-ma làm một tăng-kỳ. Tăng kỳ lần tăng-kỳ làm một thú. Thú lần thú làm một dụ. Dụ lần dụ làm một vô số. Vô số lần vô số làm một vô số chuyển. Vô số chuyển lần vô số chuyển làm một vô lượng. Vô lượng lần vô lượng làm một vô lượng chuyển. Vô lượng chuyển lần vô lượng chuyển làm một vô biên. Vô biên lần vô biên làm một vô biên chuyển. Vô biên chuyển lần vô biên chuyển làm một vô đẳng. Vô đẳng lần vô đẳng làm một vô đẳng chuyển. Vô đẳng chuyển lần vô đẳng chuyển làm một bất khả sổ. Bất khả sổ lần bất khả sổ làm một bất khả chuyển. Bất khả sổ chuyển lần bất khả sổ chuyển làm một bất khả xưng. Bất khả xưng lần bất khả xưng làm một bất khả xưng chuyển. Bất khả xưng chuyển lần bất khả xưng chuyển làm một bất khả tư. Bất khả tư lần bất khả tư làm một bất khả tư chuyển. Bất khả tư chuyển lần bất khả tư chuyển làm một bất khả lượng. Bất khả lượng lần bất khả lượng làm một bất khả lượng chuyển. Bất khả lượng chuyển lần bất khả lượng chuyển làm một bất khả thuyết. Bất khả thuyết lần bất khả thuyết làm một bất khả thuyết chuyển. Bất khả thuyết chuyển lần bất khả thuyết chuyển làm một bất khả thuyết bất khả thuyết. Bất khả thuyết bất khả thuyết lần bất khả thuyết bất khả thuyết làm một bất khả thuyết bất khả thuyết chuyển.
Như thế tăng dần để tính các con số đến hết trang giấy, rốt cuộc kết luận một câu rất gọn, tất cả những gì Bồ-tát biết được, phàm tình không thể biết.
Này Thiện nam tử! Ta dùng Bồ-tát toán pháp này để tính toán đống cát rộng lớn vô lượng do-tuần, đều biết trong đó có bao nhiêu hạt cát. Cũng có thể toán biết phương Đông có tất cả bao nhiêu thế giới sai khác thứ đệ an trụ. Chín phương cũng như vậy.
Dùng phép tính toán chi li bất khả thuyết để có thể biết số hạt cát trong một đống cát lớn vô lượng do-tuần. Điều này ngoài sức tưởng tượng của chúng ta.
Ta cũng có thể toán biết mười phương có tất cả bao nhiêu thế giới rộng hẹp lớn nhỏ và danh hiệu, trong đó bao nhiên tên của tất cả kiếp, tên của tất cả Phật, tên của tất cả chúng sanh, tên của tất cả nghiệp, tên của tất cả Bồ-tát, tên của tất cả để lý, ta đều biết rõ.
Các nhà thiên văn giỏi toán, có thể biết khoảng cách từ mặt đất lên một ngôi sao gần chúng ta, có thể biết ngôi sao đó độ chừng bao lớn… Biết được như vậy là đã rất giỏi, huống nữa là biết trong ngôi sao đó có bao nhiêu chúng sanh, tên gì, nghiệp gì… Sức trí tuệ toán pháp của Bồ-tát thật phi thường, thế gian không sánh được.
Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết một pháp môn Nhất thiết công xảo đại thần thông trí quang minh này. Như chư đại Bồ-tát có thể biết tất cả số chúng sanh, biết tất cả số phẩm loại của các pháp, biết số sai biệt của tất cả pháp, biết số tất cả tam thế, biết danh số tất cả chúng sanh, biết danh số tất cả pháp, biết số tất cả Như Lai, biết danh số tất cả chư Phật, biết số tất cả Bồ-tát, biết danh số tất cả Bồ-tát. Như vậy ta làm sao biết được, nói được công đức đó, làm sao hiển thị được công hạnh và cảnh giới đó, làm sao khen được thắng lực đó, biện được lạc dục đó, tuyên được trợ đạo đó, bày được đại nguyện đó, khen được diệu hạnh đó, xiển dương được các ba-la-mật đó, diễn nói được thanh tịnh đó, nhẫn đến làm sao phát được trí tuệ quang minh thù thắng đó.
Sức toán số, trí tuệ của một đồng tử như thế, đối với chúng sanh thật vượt ngoài khả năng hiểu biết. Ngài còn tuyên dương giới thiệu các đại Bồ-tát, đem sức của chính mình không thể biết, không thể nói hết công đức đó, không thể hiển thị công hạnh và cảnh giới, không thể khen thắng lực đó, không thể biện rõ lạc dục, tuyên được trợ đạo, khen diệu hạnh… Đây là giới thiệu cảnh giới cao hơn.
Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Hải Trụ. Trong thành ấy có một ưu-bà-di tên là Cụ Túc. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo?
Người học Phật đi sâu vào chỗ tu chứng, bỏ hết những hiểu biết thế gian. Người đó có dần dần ngu thêm không? Như chúng ta tu thiền, không cho nhớ nghĩ, vọng khởi liền buông không tiếp tục, vì không nuôi dưỡng huân tập nhớ nghĩ nên lâu ngày dường như ngu khờ không lanh lẹ. Người ta sẽ cho mình không có hiểu biết rộng.
Đồng tử Tự Tại Chủ học được pháp, thơ, số, toán, ấn, tất cả công xảo… là do ngài Văn-thù trực tiếp giáo hóa. Ngài Văn-thù là Căn bản trí, muốn thể nhập trí này phải dứt sạch vọng niệm loạn động, tâm thanh tịnh lặng lẽ, trí thể chân thật bừng sáng, lúc đó mới được Sai biệt trí khởi diệu dụng, tùy thuận chúng sanh mà hóa độ. Vì thế trở về thụ giáo với ngài Văn-thù thì phải dẹp ma quân vọng tưởng nhiễu loạn. Đang lúc đó dường như ngu khờ, không để ý việc bên ngoài, khi lặng lẽ thuần thục rồi, được trí biết tất cả chủng loại gọi là Nhất thiết chủng trí. Đến chỗ này thì chẳng những biết khắp việc thế gian này mà đến cả mười phương quốc độ, mười phương thế giới, tất cả chúng sanh, tất cả nguyện hạnh, tất cả tâm vật đều biết hết.
Chúng ta học Phật là siêu việt hơn cái học ở thế gian, không phải làm người ngu dốt, nhưng hiện tại đang mê thì phải tập ngu dốt để vượt hơn tất cả. Cái học ở đời chỉ biết trong hữu hạn, khi người ta bày ra công thức nào thì mình học công thức đó rồi áp dụng, không biết suốt tất cả. Chúng ta muốn học đến vô hạn, nên phải dứt bỏ cái biết còn hạn cuộc, vượt ra khỏi nó. Học Phật cao siêu như thế, nên đừng lo mình ngu, chỉ sợ mình không được ngu thôi.
Trong phần này, chúng ta thấy Thiện Tài cung kính đánh lễ đồng tử Tự Tại Chủ. Tinh thần người cầu đạo, cầu thiện tri thức không đặt vấn đề tuổi tác, địa vị, tu lâu mau, giới luật có hơn kém. Bình đẳng cầu thiện tri thức, nếu người có điều hay hơn đều sẵn sàng cầu học. Tuy vậy, phải suy xét cẩn thận. Nếu thấy trong kinh Hoa Nghiêm có các vị thiện tri thức là trưởng giả có gia đình, có người hầu hạ, rồi mình gặp một ông nào đó nói đạo rất hay, có hai ba vợ, vội cho đó là thiện tri thức, liền theo học đạo thì coi chừng lầm lẫn.
Phải hiểu kỹ chỗ này. Kinh Hoa Nghiêm khởi đầu Thiện Tài đi tham vấn là do sự chỉ dạy của Bồ-tát Văn-thù. Dần dần mỗi vị thiện tri thức đều lần lượt giới thiệu người tiếp theo, không phải tự nhiên mà Thiện Tài đến cầu học. Phải dùng Căn bản trí là gốc, không rời Căn bản trí, không vị nào được giới thiệu ngoài Căn bản trí. Có tinh thần học hỏi là tốt, nhưng phải có trí tuệ nhận xét, nếu thấy chắc chắn đúng đạo lý, mình theo học được lợi ích giải thoát không mê mờ, đó là đi đúng đường. Vị thầy nào dạy hay đến đâu mà càng học càng thêm buộc ràng, thêm lún sâu chấp chặt thì nên nhớ đó không phải thiện tri thức chân thật.
Thiện Tài đồng tử nghe lời trên đây, cả mình rởn ốc hoan hỷ vô lượng, được tâm tin mến hy hữu, thành tựu tâm rộng lớn lợi ích chúng sanh, đều có thể thấy rõ tất cả chư Phật thứ đệ xuất thế, đều có thể thông đạt pháp luân trí tuệ thậm thâm thanh tịnh. Nơi tất cả các loài đều tùy loại hiện thân. Rõ biết cảnh giới tam thế bình đẳng. Xuất sanh vô tận công đức hải. Phóng đại trí tuệ tự tại quang minh. Mở khóa cửa thành ba cõi.
Thiện Tài đảnh lễ chân Tự Tại Chủ đồng tử, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Khi rời thiện tri thức, Thiện Tài lúc nào cũng quán sát tư duy lời dạy, quán sát tư duy là pháp tu, thâm nhập thứ bậc như thiện tri thức.
Bấy giờ Thiện Tài quán sát tư duy lời dạy của thiện tri thức. Dường như biển lớn nhận nước mưa to không nhàm đủ. Tự nghĩ rằng lời dạy của thiện tri thức như xuân nhật, sanh trưởng tất cả gốc mầm pháp lành. Lời dạy của thiện tri thức như mãn nguyệt, phàm chỗ chiếu đến đều làm cho mát mẻ. Lời dạy của thiện tri thức như núi Tuyết mùa hạ, hay làm cho muông thú khỏi nóng khát. Lời dạy của thiện tri thức như mặt nhật chiếu ao nước thơm, làm nở tất cả những hoa sen thiện tâm. Lời dạy của thiện tri thức như châu đại bảo, những pháp bảo sung mãn nơi tâm. Lời dạy của thiện tri thức như cây diêm-phù, chứa nhóm tất cả hoa quả phước trí. Lời dạy của thiện tri thức như đại long vương, du hý tự tại trên hư không. Lời dạy của thiện tri thức như núi Tu-di, Đao-lợi thiên vô lượng thiện pháp ở trong đó. Lời dạy của thiện tri thức dường như Đế thích chúng hội vây quanh, không ai chói che được, hay phục ngoại đạo và chúng ma quân.
Thiện Tài ca ngợi lời dạy quý báu của thiện tri thức, nhờ đó mà ngài được thành tựu quả vị.
Thiện Tài đi lần đến thành Hải Trụ tìm đến nhà ưu-bà-di Cụ Túc. Nhà này rất rộng, nhiều thứ trang nghiêm, tường rào bao bọc toàn bằng những chất báu. Bốn phía đều có cửa bảo trang nghiêm.
Thiện Tài đến gặp thiện tri thức là một vị ưu-bà-di, tiêu biểu cho quả vị thứ ba trong Thập hạnh gọi là Vô di nghịch hạnh, hạnh không trái nghịch. Quả vị này dùng pháp tu nhẫn nhục nên hiện thân là người nữ. Ưu-bà-di này tên là Cụ Túc, vì hạnh nhẫn nhục giúp chúng ta viên mãn tất cả công đức, nếu khi tu mà thiếu nhẫn thì khó thành tựu tròn đầy.
Thiện Tài vào nhà, thấy Cụ Túc ưu-bà-di ngồi trên tòa báu, tuổi lớn xinh đẹp đoan trang đáng kính, mặc y phục trắng, rũ tóc, không đeo chuỗi ngọc. Thân tướng của ưu-bà-di này oai đức quang minh, trừ Phật và đại Bồ-tát, không ai bằng được.
Trong nhà để mười ức tòa ngồi, hơn cả nhân thiên. Đây đều là do nghiệp lực Bồ-tát hiện thành. Trong nhà không có y phục, đồ uống ăn và không có tất cả đồ cần dùng khác, chỉ trước mặt ưu-bà-di này để một cái bát nhỏ.
Chỉ một bát nhỏ mà tất cả chúng sanh mười phương đến ưu-bà-di đều tùy ý thí cho không thiếu. Tại sao để bát nhỏ, không để bát to thí cho chúng sanh? Nhỏ là để chỉ cho đức khiêm hạ, vì hạnh nhẫn nhục là hạnh khiêm hạ. Chính đức khiêm hạ này nên mười phương chúng sanh đến đều được thỏa mãn, muốn bao nhiều được bấy nhiêu.
Lại có một vạn đồng nữ xinh đẹp như thiên nữ vây quanh, những diệu bảo trang sức nơi thân, lời nói dịu dàng người nghe đều vui đẹp. Các đồng nữ này thường thân cận hai bên ưu-bà-di tư duy quán sát, cúi đầu khom mình ứng chực sai khiến.
Hạnh nhẫn nhục nên nói ra lời dịu dàng, ai nghe cũng đều vui đẹp và hết lòng cung kính.
Các đồng nữ này, nơi thân phát ra mùi thơm lan khắp nơi. Nếu có chúng sanh nào gặp được mùi thơm này thời đều được bất thối chuyển không lòng giận hại, không lòng oán thù, không lòng tham ganh, không lòng dua dối, không lòng hiểm độc, không lòng yêu ghét, không lòng giận hờn, không lòng hạ liệt, không lòng cao mạn, sanh lòng bình đẳng, khởi tâm đại từ, phát tâm lợi ích, trụ tâm luật nghi, rời tâm tham cầu. Người thấy thân các đồng nữ này thời đều lìa tham nhiễm. Người nghe tiếng các đồng nữ này thời đều vui mừng hớn hở.
Đức nhẫn nhục cao thì ai nghe tới cũng thích mến vui mừng, lòng giận hại oán thù lắng xuống, phát tâm lợi ích, lìa các tham nhiễm.
Thiện Tài đảnh lễ ưu-bà-di, cung kính hữu nhiễu, chắp tay bạch rằng: Bạch đức Thánh! Tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, thế nào tu Bồ-tát đạo? Tôi nghe đức Thánh khéo dạy bảo, xin giảng nói cho.
Cụ Túc ưu-bà-di nói: Này Thiện nam tử! Ta được môn giải thoát Bồ-tát vô tận công đức tạng. Có thể ở trong một cái bát nhỏ này, tùy theo sở thích của tất cả chúng sanh mà xuất hiện các thứ đồ uống ăn ngon lành, làm cho họ đều được no đủ cả.
Giả sử có trăm chúng sanh, ngàn chúng sanh nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết chúng sanh, giả sử có Diêm-phù-đề vi trần số chúng sanh, Tứ thiên hạ vi trần số chúng sanh, Tiểu thiên thế giới, Trung thiên thế giới, Đại thiên thế giới, nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vi trần số chúng sanh. Giả sử tất cả chúng sanh cùng khắp mười phương thế giới, cũng đều tùy sở thích làm cho họ được no đủ cả, mà trong bát nhỏ này đồ dùng không cùng tận, không giảm ít. Như đồ uống ăn đây, các thứ thượng vị, các thứ giường tòa, các thứ y phục, các thứ chiếu nệm, các thứ xe cộ, các thứ hoa, các thứ tràng hoa, các thứ hương, các thứ hương thoa, các thứ hương đốt, các thứ hương bột, các thứ trân bảo, các thứ anh lạc, các thứ tràng, các thứ phan, các thứ lọng, các thứ đồ cần dùng thượng diệu, tùy ý tất cả chúng sanh thích đều làm cho được đầy đủ cả.
Lại này Thiện nam tử! Giả sử phương Đông trong một thế giới, hàng Thanh văn, Độc giác ăn đồ ăn của ta rồi thời đều chứng quả Thanh văn, quả Bích-chi Phật trụ tối hậu thân. Như một thế giới, trăm thế giới, ức thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát vị trần số thế giới, trong đó tất cả hàng Thanh văn và Độc giác ăn thực phẩm của ta rồi, thời đều chứng quả Thanh văn và Bích-chi Phật, trụ tối hậu thân. Như phương Đông, chín phương kia cũng đều như vậy.
Tại sao hàng Thanh văn, Độc giác ăn đồ ăn của bà đều được chứng thánh quả? Đây gọi là thực dụng, tức là ăn rồi thấm nhuần đạo lý. Bởi thấm nhuần đạo lý liền thuận với hạnh nhẫn nhục, thành tựu đạo quả. Thế nên vị nào thọ thức ăn của ưu-bà-di đều được kết quả như ý.
Lại này Thiện nam tử! Phương Đông một thế giới nhẫn đến bất khả thuyết bất khả thuyết Phật sát cực vị trần số thế giới, trong đó tất cả bậc Nhất sanh bổ xứ Bồ-tát ăn thực phẩm của ta rồi, thời đều ngồi cội bồ đề hàng phục ma quân thành Đẳng chánh giác. Như phương Đông, chín phương kia cũng đều như vậy.
Nhẫn người mắng mình, đó là nhẫn nhục của phàm phu. Nhẫn của Bồ-tát là nhẫn để chiến thắng những loạn động của tâm tưởng, an trụ được tâm loạn động gọi là Vô sanh nhẫn. Khi chứng quả cũng không thỏa mãn, vươn lên không dừng trụ nơi quả vị đó, sức an nhẫn này vượt hơn sự nhẫn nhục thường tình. Những vị Bồ-tát nhờ ăn được thức ăn nhẫn nhục này mà ngồi cội bồ đề hàng phục ma quân thành bậc Chánh giác. Mười phương đều được lợi ích như vậy.
Này Thiện nam tử! Ngươi thấy mười ngàn đồng nữ đây chăng? Đây là những bậc thượng thủ, tất cả quyến thuộc có đến trăm vạn a-tăng-kỳ đồng nữ đều cùng ta đồng hạnh, đồng nguyện, đồng thiện căn, đồng một đạo xuất ly, đồng thanh tịnh giải, đồng thanh tịnh niệm, đồng thanh tịnh thú, đồng vô lượng giác, đồng được thiện căn, đồng tâm quảng đại, đồng cảnh sở hành, đồng lý, đồng nghĩa, đồng minh liễu pháp, đồng tịnh sắc tướng, đồng vô lượng lực, đồng tối tinh tấn, đồng chánh pháp âm, đồng tùy loại âm, đồng thanh tịnh đệ nhất âm, đồng tán dương vô lượng công đức thanh tịnh, đồng nghiệp thanh tịnh, đồng báo thanh tịnh, đồng đại từ cứu hộ khắp tất cả, đồng đại bi khắp thành thục chúng sanh, đồng thân nghiệp thanh tịnh tùy duyên tập khởi làm cho người thấy vui mừng, đồng khẩu nghiệp thanh tịnh tùy theo ngữ ngôn thế gian mà tuyên bố pháp hóa, đồng qua đạo tràng chúng hội của tất cả chư Phật, đồng đến tất cả Phật độ cúng dường chư Phật, đồng có thể hiện thấy tất cả pháp môn, đồng trụ Bồ-tát thanh tịnh hạnh địa.
Này Thiện nam tử! Mười ngàn đồng nữ này có thể ở nơi cái bát nhỏ đây, lấy thượng vị ẩm thực trong khoảng một sát-na, đến khắp mười phương cúng dường tất cả tối hậu thân Bồ-tát, Thanh văn, Độc giác, nhẫn đến bố thí các loài ngạ quỷ đều khiến no đủ. Mười ngàn đồng nữ này đem cái bát của ta đây, có thể ở trong cõi trời đầy đủ thực phẩm cõi trời, nhẫn đến ở nhân gian đầy đủ thực phẩm loài người.
Này Thiện nam tử! Chờ giây lát ngươi sẽ tự thấy.
Cụ Túc ưu-bà di nói xong, có vô lượng chúng sanh từ bốn cửa vào nhà, đại chúng này đều do bổn nguyện của ưu-bà di mời đến. Khi đại chúng đã đến xong, ưu bà di trải tòa cho ngồi, tùy theo chỗ cần dùng của họ mà cấp thí đồ uống ăn đều khiến no đủ cả.
Ưu-bà-di chỉ cho Thiện Tài thấy công dụng của cái bát nhỏ đó, khi vô lượng chúng sanh từ bốn cửa vào nhà, bà cung cấp thức uống ăn khiến họ đều được no đủ.
Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Vô tận phước đức tạng này. Như chư đại Bồ-tát, tất cả công đức dường như đại hải rất sâu vô tận, dường như hư không rộng lớn vô tế, dường như châu như ý thỏa mãn nguyện vọng của chúng sanh, như tụ lạc lớn cầu chi cũng được, như núi Tu-di nhóm đủ các báu, như tạng sâu kín thường đựng pháp tài, như đèn sáng phá những tối tăm, như lọng cao che mát quần sanh… Như thế ta làm sao biết được, nói được công đức hạnh đó.
Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành tên là Đại Hưng. Trong thành có một cư sĩ tên là Minh Trí. Ngươi đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo?
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân Cụ Túc ưu-bà-di, hữu nhiễu vô lượng vòng, chiêm ngưỡng không nhàm từ tạ mà đi.
Hạnh thứ tư của Thập hạnh là Vô khuất nhiễu hạnh, là hạnh không khuất phục. Nghĩa là những gì làm khuấy nhiễu loạn động, mình vẫn tiến tu không lui sụt. Pháp tu này thuộc về Tinh tấn ba-la-mật.
Cư sĩ Minh Trí ở trong thành Đại Hưng. Đại Hưng tức là do sức tinh tấn mà được hưng thịnh, được thành tựu. Tinh tấn của Bồ-tát khác với tinh tấn của phàm phu. Bồ-tát tinh tấn trong trí tuệ, nên thành tựu tất cả việc như nguyện. Phàm phu tinh tấn không có trí tuệ, thích cái gì thì làm quên cả ngày đêm, nên rốt cuộc lại lạc trong si mê ngu tối.
Bấy giờ, Thiện Tài đã được Vô tận trang nghiêm phước đức tạng giải thoát môn, suy gẫm phước đức đại hải đó, quán sát phước đức hư không đó, đến nhóm phước đức đó, lên núi phước đức đó, nhiếp tạng phước đức đó, vào vực sâu phước đức đó, lội ao phước đức đó, tịnh xe phước đức đó, thấy kho phước đức đó, vào cửa phước đức đó, đi đường phước đức đó, tu giống phước đức đó.
Thiện Tài đi lần đến thành Đại Hưng tìm cư sĩ Minh Trí. Với thiện tri thức lòng rất khát ngưỡng. Đem thiện tri thức huân tập tâm mình. Nơi thiện tri thức chí muốn kiên cố. Phương tiện tìm thấy thiện tri thức lòng chẳng thối chuyển. Nguyện được phụng thờ chư thiện tri thức tâm không mỏi lười. Vì biết do y chỉ thiện tri thức mà được thành mãn các pháp lành. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên có thể sanh những phước đức. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên có thể thêm lớn công hạnh. Vì biết do y chỉ thiện tri thức nên chẳng do người khác dạy mà tự mình có thể thờ kính tất cả thiện hữu.
Đoạn này khen ngợi Thiện Tài, đối với những gì thiện tri thức đã dạy, luôn huân tập vào tâm và thực hành theo lời dạy bảo đó, để mình cũng được như vậy.
Lúc Thiện Tài tư duy như vậy, được thêm lớn thiện căn, thanh tịnh thâm tâm, thêm căn tánh, lợi đức bổn, thêm đại nguyện, rộng đại bi, gần Nhất thiết trí, đủ đạo Phổ Hiền, chiếu sáng tất cả chánh pháp của chư Phật, thêm lớn thập lực quang minh của chư Phật.
Thiện Tài thấy cư sĩ Minh Trí tại ngã tư đường chợ, trên đài thất bảo, ngồi tòa vô số bảo trang nghiêm. Tòa đó diệu hảo bằng thanh tịnh ma-ni, chân tòa bằng kim cang để thanh, dây báu giao xen, nghiêm sức với năm trăm diệu bảo; trải bảo y cõi trời, dựng tràng phan cõi trời, giăng lưới đại bảo. Thiết trướng đại bảo, vàng diêm-phù đàn làm lọng, tỳ-lưu-ly bảo làm cán, bảo người cầm che, Lông cánh nga vương thanh tịnh sạch đẹp dùng làm quạt. Xông những diệu hương. Mưa những thiên hoa, Hai bên năm trăm tiếng nhạc thường hòa tấu. Tiếng nhạc hay hơn nhạc cõi trời. Chúng sanh nghe tiếng nhạc này đều vui đẹp. Quyến thuộc có mười ngàn người vây quanh sau trước, hình sắc đoan nghiêm, người thấy được vui mừng, nghiêm sức với đồ trang nghiêm cõi trời, ở trong nhân thiên tối thắng vô tỷ. Tất cả đều đã thành tựu chí nguyện Bồ-tát, đều cùng với cư sĩ Minh Trí đồng thiện căn thuở xưa, tất cả đều đứng hầu tuân lời sai khiến.
Tinh tấn của Bồ-tát là tinh tấn để lợi ích cho chúng sanh, chứ không phải chỉ tinh tấn dẹp trừ phiền não mà thôi. Vì vậy các ngài hiện thân ở giữa chợ, nghĩa là ở nơi chốn đông người để làm lợi ích cho họ. Tuy ở giữa chợ nhưng lúc nào thân tướng cũng trang nghiêm, nên đây diễn tả ngồi tòa thanh tịnh ma-ni trên đài thất bảo, chân tòa bằng kim cang… để nói lên sức tinh tấn mãnh liệt, vững chãi không gì lay chuyển.
Thiện Tài đồng tử đảnh lễ chân cư sĩ, hữu nhiễu vô lượng vòng, chắp tay cung kính thưa rằng:
Bạch đức Thánh! Tôi vì lợi ích tất cả chúng sanh. Vì làm cho tất cả chúng sanh khỏi những nạn khổ. Vì làm cho tất cả chúng sanh được rốt ráo an vui. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi biển sanh tử. Vì làm cho tất cả chúng sanh ở cõi nước pháp bảo. Vì làm cho tất cả chúng sanh khô cạn sông ái dục. Vì làm cho tất cả chúng sanh khởi đại từ bi. Vì làm cho tất cả chúng sanh bỏ lìa ái dục. Vì làm cho tất cả chúng sanh khát ngưỡng Phật trí. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi đồng hoang sanh tử. Vì làm cho tất cả chúng sanh thích công đức của chư Phật. Vì làm cho tất cả chúng sanh ra khỏi thành tam giới. Vì làm cho tất cả chúng sanh nhập thành Nhất thiết trí. Nên tôi đã phát tâm vô thượng Bồ-đề, mà chưa biết Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ-tát đạo, để có thể làm chỗ y chỉ cho tất cả chúng sanh?
Thiện Tài nói những điều này không phải để khoe bản thân mình hay, mà ngài nỗ lực tinh tấn tu hành chính là vì muốn làm lợi ích cho tất cả chúng sanh. Nay phát tâm vô thượng Bồ-đề, cầu xin chỉ dạy, làm sao học hạnh Bồ-tát, làm sao tu đạo Bồ-tát, để có thể làm y chỉ cho tất cả chúng sanh.
Cư sĩ Minh Trí bảo rằng: Lành thay, lành thay! Này Thiện nam tử! Ngươi có thể phát được tâm vô thượng Bồ-đề.
Này Thiện nam tử! Rất khó có người phát được tâm vô thượng Bồ-đề. Nếu có thể phát tâm ấy thì người đó có thể cầu Bồ-tát hạnh, gặp gỡ thiện tri thức hằng chẳng nhàm đủ. Gần gũi thiện tri thức hằng không mỏi nhọc. Cúng dường thiện tri thức hằng không biếng lười. Cung cấp hầu hạ thiện tri thức chẳng có lòng ưu sầu. Tìm cầu thiện tri thức trọn chẳng thối chuyển. Mến nhớ thiện tri thức trọn chẳng buông bỏ. Phụng thờ thiện tri thức không tạm thôi nghỉ. Chiêm ngưỡng thiện tri thức không lúc nào ngừng ngớt. Thật hành lời dạy của thiện tri thức chưa từng lười biếng. Bẩm thọ tâm của thiện tri thức không có sai lầm.
Người phát tâm mạnh mẽ như vậy, chắc chắn sẽ được gặp thiện tri thức, bẩm thọ được tất cả những gì thiện tri thức dạy bảo.
Này Thiện nam tử! Ngươi xem đại chúng của ta đây, Ta đã khiến họ phát tâm vô thượng Bồ-đề, sanh nhà Như Lai, thêm lớn pháp lành, an trụ vô lượng ba-la-mật, học Phật thập lực, rời giống thế gian mà trụ giống Như Lai, bỏ sanh tử luân mà chuyển chánh pháp luân, diệt tam ác thú mà trụ chánh pháp thú, đều có thể cứu hộ tất cả chúng sanh như chư Bồ-tát.
Này Thiện nam tử! Ta được môn giải thoát Tùy ý xuất sanh phước đức tạng. Phàm chỗ cần dùng đều thỏa mãn cả. Như là y phục, anh lạc, voi ngựa, xe cộ, hoa hương, tràng phan, bảo cái, ẩm thực, thuốc thang, nhà phòng, giường ghế, đèn đuốc, nô tỳ, trâu dê và những người hầu hạ, tất cả đều đầy đủ mỗi khi cần đến, nhẫn đến vì nói diệu pháp chân thật.
Này Thiện nam tử! Chờ trong giây lát ngươi sẽ tự thấy.
Do cố gắng nỗ lực nên làm tất cả việc đều được mãn nguyện như ý, nếu làm nửa chừng bỏ phế thì không việc nào thành công. Đây nói lên hạnh tinh tấn không gì làm nhiễu hại, ngăn trở hay khuất phục được. Cho nên môn này gọi là Tùy ý xuất sanh phước đức tạng.
Cư sĩ nói xong, có vô lượng chúng sanh từ các phương, các thế giới, các quốc độ, các thành ấp, hình loại khác nhau, chỗ mến thích chẳng đồng, số đông vô biên đều do Bồ-tát nguyện lực thuở xưa, đều vân tập đến, đều riêng có chỗ mong muốn mà cầu xin.
Bấy giờ cư sĩ Minh Trí biết đại chúng đã đông đủ, nhiếp niệm giây lát ngước mặt ngó lên hư không. Liền đó, theo chỗ cần dùng của đại chúng mọi đồ cần dùng đều từ trên không rơi xuống, làm cho tất cả đại chúng đều được đầy đủ theo ý muốn.
Chỗ này diễn tả thật khéo. Im lặng là nhất niệm, là định. Ngước mặt nhìn lên hư không, tức là dùng trí tuệ Bát-nhã thấy các pháp không thật. Khi đã đầy đủ định tuệ thì sẽ làm lợi ích cho tất cả chúng sanh, vì vậy theo chỗ cần dùng của đại chúng đồ đạc từ trong hư không rơi xuống, khiến mọi người đều được mãn nguyện.
Sau đó cư sĩ lại vì họ mà thuyết pháp. Vì những người được món ăn ngon no đủ mà nói những hạnh chứa phước đức, hạnh lìa nghèo cùng, hạnh biết các pháp, hạnh thành tựu món ăn pháp hỷ thiền duyệt, hạnh tu tập đầy đủ các tướng hảo, hạnh tăng trưởng thành tựu khó khuất phục, hạnh có thể khéo rõ thấu món ăn vô thượng, hạnh thành tựu vô tận đại oai đức lực hàng phục ma oán.
Cư sĩ vì những kẻ được thức uống ngon no đủ mà thuyết pháp, làm cho họ bỏ lìa sự mến chấp sanh tử để nhập Phật pháp vị. Cư sĩ vì những người được vị vô thượng mà thuyết pháp, làm cho họ đều được tướng thượng hảo của chư Phật Như Lai. Cư sĩ vì những kẻ được xe cộ đầy đủ mà thuyết pháp, làm cho họ đều được ngồi xe Đại thừa. Cư sĩ vì những người được y phục thỏa mãn mà thuyết pháp, làm cho họ được y phục tàm quý thanh tịnh, nhẫn đến được diệu sắc thanh tịnh của Như Lai. Cư sĩ đều chăm sóc hoàn bị tất cả đại chúng. Mọi người nghe pháp xong đều trở về bổn xứ.
Cư sĩ Minh Trí do tâm an định và trí tuệ đầy đủ nên khéo dùng phương tiện nhiếp độ chúng sanh giúp họ được lợi ích nơi pháp, chứ không phải chỉ ban cho thức ăn uống hay những vật dụng thông thường để làm thỏa mãn họ. Ngài tùy theo nhu cầu của chúng sanh làm cho như ý, rồi sau đó vì họ nói pháp khiến đầy đủ pháp vị.
Cư sĩ Minh Trí vì Thiện Tài đồng tử mà hiển bày cảnh giới Bồ-tát bất tư nghì giải thoát rồi bảo rằng:
Này Thiện nam tử! Ta chỉ biết môn giải thoát Tùy ý xuất sanh phước đức tạng này. Như chư đại Bồ-tát thành tựu cánh tay báu trùm khắp tất cả quốc độ mười phương, dùng sức tự tại mưa khắp tất cả đồ cần dùng. Như là mưa các thứ báu nhiều màu, anh lạc nhiều màu, mão báu nhiều màu, y phục nhiều màu, âm nhạc nhiều màu, hoa nhiều màu, hương nhiều màu, hương bột nhiều màu, hương đốt nhiều màu, lọng báu nhiều màu, tràng phan nhiều màu. Mưa các thứ như vậy đầy khắp tất cả chỗ ở của chúng sanh và chúng hội đạo tràng của Như Lai. Hoặc để thành thục tất cả chúng sanh, hoặc để cúng dường tất cả chư Phật… Như vậy ta làm sao biết được, nói được những công đức tự tại thần lực đó.
Này Thiện nam tử! Phương Nam đây có một thành lớn tên là Sư Tử Cung. Nơi đó có một trưởng giả tên là Pháp Bảo Kế. Ngươi nên đến đó hỏi Bồ-tát thế nào học Bồ-tát hạnh, tu Bồ tát đạo?
Thiện Tài đồng tử vui mừng hớn hở, cung kính tôn trọng giữ lễ đệ tử đối với cư sĩ. Tự nghĩ rằng: Do cư sĩ này hộ niệm cho tôi, khiến tôi được thấy đạo Nhất thiết trí, chẳng dứt sự thương nhớ, được thấy thiện tri thức, chẳng hoại tâm tôn trọng thiện tri thức, thường hay tùy thuận lời dạy của thiện tri thức, quyết định tin sâu lời nói của thiện tri thức, hằng phát thâm tâm thờ thiện tri thức.
Thiện Tài đảnh lễ nơi chân cư sĩ Minh Trí, hữu nhiễu vô lượng vòng, ân cần chiêm ngưỡng từ tạ mà đi.
Qua hình ảnh này chúng ta biết đây không hẳn là một cư sĩ tại gia, nên Thiện Tài tôn trọng giữ lễ đệ tử đối với cư sĩ.
Đến đây là đã qua mười bốn vị thiện tri thức. Với lối diễn tả rất khéo, dẫn những câu chuyện dường như thần thoại, nào là đi tới vị này có phép lạ, tới vị kia có phép lạ… vừa hay vừa hấp dẫn người đọc. Những con số thí dụ, nếu chỉ đọc sơ sài thì sẽ không thể nào hiểu nổi, xem như là thần chú vậy. Nhưng những con số đó chính là để cho thấy trí tuệ Bồ-tát vượt hơn trí tuệ thế gian, không thể nghĩ bàn được.
Về địa vị tu chứng, đến đây gọi là Ly si loạn hạnh, là pháp tu thiền định trong phần thứ năm của Thập hạnh. Cư sĩ Minh Trí giới thiệu Thiện Tài đến thành Sư Tử Cung. Sư tử tượng trưng trí tuệ, cung chỉ cho thiền định. Bởi thiền định là cung, là nhà của trí tuệ.
Trưởng giả Pháp Bảo Kế. Bảo là châu báu, kế là búi tóc trên đảnh. Hạt châu quý ở trong búi tóc. Như vậy thiền định là thành, trí tuệ là hạt châu quý. Ý muốn nói gốc từ thiền định mà sanh khởi trí tuệ.
Thiện Tài đồng tử ở chỗ cư sĩ Minh Trí được nghe môn giải thoát này rồi thì du hành biển phước đức đó, sửa sang ruộng phước đức đó, ngưỡng vọng núi phước đức đó, xu hướng bến phước đức đó, khai phát tạng phước đức đó, quán sát pháp phước đức đó, thanh tịnh xe phước đức đó, nếm được vị của nhóm phước đức đó, phát sanh sức phước đức đó, thêm thế lực phước đức đó.
Đây nói lên sự quán sát tu chứng của đồng tử Thiện Tài, qua một thiện tri thức chứng được một pháp môn giải thoát.