Văn-thù-sư-lợi Bồ-tát nói hạnh thanh tịnh không trược loạn đại công đức rồi, vì muốn hiển thị công đức của Bồ-đề tâm, nên nói kệ hỏi Hiền Thủ Bồ-tát:
Nay tôi đã vì chư Bồ-tát
Nói hạnh thanh tịnh Phật đã tu
Ngài cũng nên ở trong hội này
Diễn đạt tu hành công đức lớn.
Đây nói về công đức của tâm Bồ-đề. Tâm Bồ-đề là tâm cầu giác ngộ, người phát tâm cầu giác ngộ giải thoát là phát tâm Bồ-đề,
Lúc đó Hiền Thủ Bồ-tát nói kệ đáp:
Lành thay xin Ngài lóng nghe đây
Những công đức đó chẳng lường được
Nay tôi tùy sức, nói ít phần
Như một giọt nước trong biển lớn.
Công đức của người phát tâm Bồ-đề lớn vô kể giống như biển cả.
Nếu có Bồ-tát sơ phát tâm
Thệ cầu sẽ chứng Phật Bồ-đề
Công đức của kia không ngằn mé
Không thể cân lường, chẳng gì sánh.
Nếu có người tu hạnh Bồ-tát, vừa phát tâm thị nguyện cầu chứng Phật quả thì công đức của vị đó không ngằn mé, cũng không thể cân lường, không có gì so sánh được. Phát tâm như vậy đã công đức lớn vô kể vậy mà không biết mình có công đức.
Huống là vô lượng vô biên kiếp
Tu đủ địa, độ, các công đức
Mười phương tất cả chư Như Lai
Đều cùng ngợi khen chẳng hết được.
Mới phát tâm đã có công đức rồi, huống nữa là tu vô lượng vô biên kiếp, đủ các địa, độ, Sơ địa, Nhị địa… Các Bồ-tát tu như vậy thì tất cả chư Phật trong mười phương đều khen ngợi.
Vô biên công đức lớn như vậy
Nay tôi trong đây nói ít phần
Ví như chân chim vạch không gian
Và như hạt bụi trên đại địa.
Công đức của Bồ-tát tu như vậy lớn vô kể, nhưng Bồ-tát Hiền Thủ chỉ kể cho ngài Văn-thù-sư-lợi nghe một ít phần công đức, giống như đường chim bay so với hư không hoặc hạt bụi so với quả địa cầu, không thấm vào đâu hết.
Bồ-tát phát tâm cầu Bồ-đề
Chẳng phải không nhân, không có duyên
Với Phật, Pháp, Tăng khởi lòng tin
Do đây mà sanh tâm rộng lớn.
Bồ-tát phát tâm cầu giác ngộ không phải chẳng có nhân duyên. Ban đầu từ Tam bảo Phật, Pháp, Tăng khởi lòng tin, do đây sanh tâm rộng lớn. Đó là nhân đầu tiên để tiến tu.
Chẳng cầu ngũ dục và ngôi vua
Chẳng mong giàu, vui, danh tiếng lớn
Chỉ vì dứt hẳn khổ chúng sanh
Lợi ích thế gian mà phát ý.
Bồ-tát phát tâm tu hành không cầu mong được ăn ngon mặc đẹp, hoặc làm vua, giàu sang, danh tiếng lớn. Chỉ vì dứt khổ cho chúng sanh, vì làm lợi ích chúng sanh.
Thường muốn lợi lạc các chúng sanh
Trang nghiêm cõi nước, cúng dường Phật
Thọ trì chánh pháp, tu trí tuệ
Vì chứng Bồ-đề mà phát tâm.
Trước là muốn làm lợi lạc cho chúng sanh, trang nghiêm cõi nước, cúng dường Phật, thọ trì chánh pháp phát trí tuệ sáng suốt, vì chứng quả Bồ-đề mà phát tâm tu. Thọ trì chánh pháp là học hỏi Phật pháp, tu trí tuệ là quán chiếu đừng để si mê che phủ, chứng Bồ-đề là đạt đến quả vị Phật.
Thâm tâm, tin, hiểu thường thanh tịnh
Cung kính, tôn trọng tất cả Phật
Nơi Pháp và Tăng cũng như vậy
Chí thành cúng dường mà phát tâm.
Do niềm tin và hiểu biết sâu xa thanh tịnh nên cung kính tôn trọng Tam bảo, chí thành cúng dường mà phát tâm Bồ-đề.
Thâm tín nơi Phật và Phật pháp
Cũng tin Phật tử đạo tu hành
Và tin vô thượng đại Bồ-đề
Do đây Bồ-tát phát tâm nguyện.
Do tin sâu Tam bảo, tin có giác ngộ lớn lao vô thượng nên Bồ-tát phát tâm nguyện. Như vậy lý do Bồ-tát đi tu, gần và rõ nhất là do lòng tin Tam bảo.
Tin là đạo nguyên, mẹ công đức
Nuôi lớn tất cả những pháp lành
Dứt trừ lưới nghi, khỏi vòng ái
Khai thị Niết-bàn, đạo vô thượng.
Lòng tin là nguồn đạo, hay phát sanh công đức, nuôi dưỡng pháp lành, dứt được lưới nghi, khỏi vòng trói buộc của ái, khai thị Niết-bàn, chỉ bày đạo vô thượng. Như vậy Niết-bàn, đạo vô thượng gốc cũng từ lòng tin mà ra. Nhiều người nghi ngờ chỗ này, lẽ ra phải tu bằng trí tuệ, tại sao tu bằng lòng tin, bảo lòng tin là nguồn của đạo, lòng tin là mẹ của tất cả công đức…? Tin ở đây là tin sau khi hiểu, mà hiểu thì đã có trí tuệ, từ trí tuệ mới có lòng tin.
Tin không nhơ bợn, lòng thanh tịnh
Là cội cung kính, trừ kiêu mạn
Cũng là pháp tạng đệ nhất tài
Là tay thanh tịnh thọ thiện hạnh.
Do tin làm cho tâm được thanh tịnh, tin sâu Tam bảo nên không làm trái với đạo lý, biến tâm như bợn trở thành thanh tịnh. Bởi tin Tam bảo nên cung kính, trừ được tâm kiêu mạn, được pháp tạng đệ nhất tài, được thiện hạnh đầy đủ.
Tin hay ban cho, không bỏn sản
Tin hay hoan hỷ vào Phật pháp
Tin hay thêm lớn trí, công đức
Tin quyết đến được bậc Như Lai.
Nhờ tin Phật dạy nhân quả không mất nên mới bố thí giúp đỡ người, không bỏn sẻn keo kiệt. Nếu không tin làm sao bố thí, làm lành. Bởi có niềm tin nên hoan hỷ tiến tu mới vào được Phật pháp, thêm lớn trí tuệ, công đức tăng trưởng. Bởi có niềm tin nên cố gắng tu để thành Phật.
Tin khiến lục căn sạch, sáng,
Tin sức kiên cố không bị hư
Tin hay dứt hẳn cội phiền não
Tin hay chuyển hướng Phật công đức.
Bởi tin Tam bảo nên cố gắng tu để sáu căn không nhiễm sáu trần, nhờ vậy tâm được sáng sạch, lanh lẹ. Bởi niềm tin vững vàng không gì lay chuyển nổi, nên không bị phiền não lôi cuốn. Do lòng tin chuyển tất cả hướng về công đức Phật, chứ không đi đường nào khác.
Tin khiến lục căn sạch, sáng, lạ
Tin sức kiên cố không bị hư
Tin nơi cảnh giới không chấp trước
Xa lìa các nạn, được vô nạn
Tin hay vượt khỏi các đường ma
Thị hiện đạo giải thoát vô thượng.
Như tin Phật nói thân này vô thường, cảnh giới vô thường, rồi khéo tu chứng được vô thượng Bồ-đề, thoát khỏi vô thường sanh diệt. Vì vậy không chấp trước cõi này, xa lìa các nạn được không nạn. Nhờ tin Tam bảo nên vượt khỏi các đường ma, đạo vô thượng giải thoát hiện trước mặt không nghi ngờ.
Tin là giống công đức không hư
Tin hay sanh trưởng cây Bồ đề
Tin hay thêm lớn trí tối thắng
Tin hay thị hiện tất cả Phật.
Do lòng tin mà giống công đức không hư hoại, sanh trưởng tâm giác ngộ, thêm trí tuệ thù thắng, thị hiện tất cả Phật. Nếu người nào phát tâm tu phải nhớ, một là tin Tam bảo có những công đức thù thắng, hai là tin mình tiến tu sẽ đến vô thượng Bồ-đề không nghi. Biết rõ tin sâu hai điểm đó thì người ấy sẽ tu hành viên mãn.
Cứ theo công hạnh nói thứ độ
Tin là hơn hết, rất khó được
Ví như trong tất cả thế gian
Mà có như ý diệu bảo châu.
Theo công hạnh nói thứ lớp thì tin là hơn hết, rất khó được. Nếu có lòng tin thì như được hạt châu như ý. Cầm hạt châu như ý trong tay giống như cầm cuốn sách ước, ước điều gì được điều đó. Ai có đủ lòng tin sẽ được như thế.
Nếu thường tin thờ nơi chư Phật
Thời hay trì giới và tu học
Nếu thường trì giới và tu học
Thời hay đầy đủ các công đức.
Nếu thường tin Phật thì mới giữ giới của Phật dạy và tu học. Nhờ đó mới được đầy đủ công đức.
Giới hay khai phát gốc Bồ-đề
Học là siêng tu bậc công đức,
Nơi giới và học thường thuận làm
Thời được chư Phật luôn khen ngợi.
Giới hay khai phát gốc Bồ-đề khiến cho tăng trưởng, từ giới đó học và siêng tu các công đức. Cho nên người nào giữ giới và siêng học Phật pháp, thì người đó được chư Phật luôn khen ngợi.
Nếu thường tin phụng nơi chư Phật
Thời hay trần thiết cúng dường lớn
Nếu hay trần thiết cúng dường lớn
Người này tin Phật bất tư nghì.
Nếu tin Phật thì thường thiết lễ cúng dường lớn, niềm tin của người này đối với Phật bất tư nghì.
Nếu thường tin phụng nơi tôn pháp
Thời nghe Phật pháp không nhàm đủ
Nếu nghe Phật pháp không nhàm đủ
Người này tin pháp bất tư nghì.
Nếu thường tin thờ quý trọng Phật pháp thì khi nghe Phật pháp, mình không thấy nhàm chán và cho là đủ. Đó là người tin pháp bất tư nghì.
Nếu thường tin phụng thanh tịnh tăng
Thời được tín tâm bất thối chuyển
Nếu được tín tâm bất thối chuyển
Người này tín lực không dao động.
Nếu người có lòng tin với chư tăng thanh tịnh, thì lòng tin không bị lui sụt. Càng thân cận càng tin sâu và được sức mạnh của lòng tin không dao động, có khả năng loại bỏ mọi tà tín.
Nếu được tín lực không dao động
Thời được lục căn sạch sáng lạ
Nếu được lục căn sạch sáng lẹ
Thời hay xa lìa ác tri thức.
Nếu người có lòng tin tăng thanh tịnh thì được tâm không lui sụt, sức mạnh của lòng tin không gì lay chuyển. Nhờ đó sáu căn dần dần trong sạch, sáng suốt, lanh lẹ, xa lìa những người hướng dẫn không đúng Phật pháp.
Nếu hay xa lìa ác tri thức
Thời được gần gũi thiện tri thức
Nếu được gần gũi thiện tri thức
Thời hay tu tập quảng đại thiện.
Nếu ai được gần gũi thiện tri thức, người đó thường hay thực hành những việc thiện rộng lớn. Bởi thiện tri thức dạy những điều hay điều tốt, nên tâm thiện ngày càng tăng trưởng và càng làm được việc thiện lớn hơn nữa.
Nếu hay tu tập quảng đại thiện
Người này được thành nhân lực lớn
Nếu người được thành nhân lực lớn
Thời được thù thắng quyết định giải.
Nếu người nào đã tu tập tâm thiện rộng lớn, người đó sẽ được sức nhân duyên lớn, thành tựu sự hiểu biết quyết định thù thắng.
Nếu được thù thắng quyết định giải
Thời được chư Phật thường hộ niệm
Nếu được chư Phật thường hộ niệm
Thời hay phát khởi Bồ-đề tâm.
Nếu đã được quyết định thù thắng sẽ thường được chư Phật thầm gia hộ cho mình, phát khởi tâm Bồ-đề mạnh mẽ. Nếu người nào đối với Tam bảo Phật, Pháp, Tăng đã đầy đủ lòng tin, hiểu biết chắc chắn thì việc gì đã làm không còn nghi ngờ. Dù ai nói dọc nói ngang, cứ khẳng định con đường mình đi.
Nếu hay phát khởi Bồ-đề tâm
Thời hay siêng tu Phật công đức
Nếu hay siêng tu Phật công đức
Thời được sanh vào nhà của Phật.
Nếu ai phát khởi tâm Bồ-đề thì người đó siêng tu các công đức của chư Phật, và sẽ được sanh vào nhà của Phật.
Nếu được sanh ở nhà chư Phật
Thời khéo tu hành phương tiện lớn
Nếu khéo tu hành phương tiện lớn
Thời tâm tin ưa được thanh tịnh.
Nếu được sanh vào nhà chư Phật sẽ có phương tiện nhiều hơn để làm lợi ích chúng sanh, tâm tin ưa của mình càng được thanh tịnh. Bởi vào nhà chư Phật thì mọi phương tiện sẽ được dễ dàng như ý.
Nếu được tâm tin ưa thanh tịnh
Thời được tâm tăng thượng tối thắng
Nếu được tâm tăng thượng tối thắng
Thời thường tu tập ba-la-mật.
Tăng thượng tối thắng là cứ tiến lên hoài, từ một lên hai, từ hai lên ba… cứ như vậy mà càng ngày càng lên cao, càng cao càng tốt đẹp. Nếu được tâm tăng thượng tối thắng thì mình thường tu tập ba-la-mật.
Nếu thường tu tập ba-la-mật
Thời được trọn đủ pháp Đại thừa
Nếu được trọn đủ pháp Đại thừa
Thời hay đúng pháp cúng dường Phật.
Nếu người nào tu pháp cứu cánh thì người đó được đủ pháp Đại thừa, thường hay đúng pháp cúng dường Phật.
Nếu hay đúng pháp cúng dường Phật
Thời được tâm niệm Phật bất động
Nếu được tâm niệm Phật bất động
Thời thường thấy được vô lượng Phật.
Cúng dường Phật đúng pháp thì tâm niệm Phật của vị ấy bất động, nghĩa là tin quả quyết không bao giờ đổi thay. Bởi tâm niệm Phật không động nên thường thấy vô lượng Phật.
Nếu thường thấy được vô lượng Phật
Thời thấy Như Lai thể thường trụ
Nếu thấy Như Lai thể thường trụ
Thời biết được pháp trọn bất diệt.
Nếu thường thấy Phật thì Phật đâu có mất. Vì tin chưa sâu nên không thấy Phật, rồi cho rằng Phật đã nhập Niết-bàn. Nếu đã tin sâu, tin chắc chắn việc làm đúng thì Phật luôn luôn ở bên mình, đó là Phật thường trụ. Người tin Phật thường trụ tức là được pháp bất diệt.
Chỗ này tôi xin nói thêm, chúng ta do nhận thức sai những danh từ của nhà Phật, nên làm tăng thêm sự yếu đuối của mình. Như trong kinh thường nói năm trăm năm đầu sau Phật Niết-bàn gọi là thời kỳ chánh pháp, ai tu cũng có thể đắc đạo. Năm trăm năm kế là thời kỳ tượng pháp, tức là tương tự với chánh pháp nhưng không bằng chánh pháp. Sau đó là thời kỳ mạt pháp.
Đời Đường về sau mới hơn ngàn năm, cũng có nhiều vị tổ chứng đạo xuất hiện trong thời mạt pháp. Nếu cho rằng trong thời chánh pháp mười người tu mười người chứng thì tại sao trong hội Pháp Hoa có đến năm ngàn vị thối lui khỏi pháp hội? Nên tôi chủ trương ngược lại, Phật pháp thịnh suy không phải tại thời, mà tại ý chí con người. Ý chí yếu, niềm tin kém thì Phật pháp suy. Nếu ý chí mạnh, niềm tin vững thì Phật pháp thịnh. Bây giờ cách Phật lâu xa mà mình tin Phật chắc chắn không ngờ vực thì mạt pháp biến thành chánh pháp. Nếu không tin Phật thì dù thời chánh pháp đối với mình cũng biến thành mạt pháp.
Như mùa nóng cũng có khi lạnh, trong mùa lạnh cũng đôi khi nóng. Cũng vậy tuy sanh trong đời mạt pháp nhưng nếu mình nỗ lực tu tập cũng sẽ được như trong thời chánh pháp. Thời chánh pháp các ngài nỗ lực chừng mười, đời tượng pháp các ngài nỗ lực hai mươi, đời mạt pháp chúng ta phải nỗ lực ba mươi thì mới được, mình phải có niềm tin quả quyết như vậy. Chỗ quan trọng của sự tu là nếu có niềm tin chánh đáng thì nó sẽ đẩy chúng ta đi đến đích.
Có những người tuy đã tu nhưng cho rằng đối với nghiệp không chắc gì mình chuyển được. Bởi nghĩ như vậy nên hay đổ thừa nghiệp của mình nặng quá liền bó tay đầu hàng rồi thả trôi cho nghiệp lỗi. Mình đã yếu, thêm ý nghĩ đó càng làm cho tâm mình yếu thêm. Tại sao mình đổ thừa cho nghiệp? Dù định hay bất định nghiệp đều chuyển được hết. Nếu là bất định nghiệp thì chuyển không khó, còn định nghiệp thì chuyển nặng thành nhẹ. Như vấn đề nam nữ, có thể nói rằng đó là nghiệp phải lập gia đình, nhưng chúng ta chuyển nghiệp gia đình thành ra nghiệp thầy trò hoặc bạn bè, có phải vui không? Cho nên chúng ta phải chuyển, mà muốn chuyển nghiệp phải đầy đủ niềm tin, niềm tin cho thật mạnh mẽ. Nếu đã có niềm tin mạnh mẽ thì có gì không tu được.
Nếu biết được pháp trọn bất diệt
Thời được biện tài vô chướng ngại
Nếu được biện tài vô chướng ngại
Thời hay khai diễn vô biên pháp.
Nếu biết rõ được pháp bất sanh bất diệt, chính là tin mình có tâm thể bất sanh bất diệt. Tin như vậy thì lý luận vững vàng và mới diễn nói được vô biên pháp.
Nếu hay khai diễn vô biên pháp
Thời hay từ mẫn độ chúng sanh
Nếu hay từ mẫn độ chúng sanh
Thời được tâm đại bi kiên cố.
Nếu đã giảng được vô biên pháp thì có lòng từ để độ chúng sanh. Đã có lòng từ để độ chúng sanh tức là tâm đại từ đại bi của mình vững chắc.
Nếu được tâm đại bi kiên cố
Thời hay mến ưa pháp thâm diệu
Nếu hay mến ưa pháp thâm diệu
Thời hay xa lìa lỗi hữu vi.
Nếu được tâm đại từ đại bi kiên cố thì đối với pháp nhiệm mầu của Phật chúng ta càng ưa thích, thực hành sâu thì không còn đắm mến pháp hữu vi.
Nếu hay xa lìa lỗi hữu vi
Thời lìa kiêu mạn và phóng dật
Nếu lìa kiêu mạn và phóng dật
Thời hay kiêm lợi tất cả chúng.
Nếu không ưa thích pháp hữu vi thì sẽ xa lìa lỗi buông lung. Bởi biết thân này hữu vi nên không ưa thích, không thích đuổi theo sáu trần. Đó là lìa được tâm phóng dật. Nếu tâm kiêu mạn và phóng dật dứt hết thì kiêm lợi tất cả chúng sanh.
Nếu hay kiêm lợi tất cả chúng
Thời ở sanh tử không mỏi nhàm
Nếu ở sanh tử không mỏi nhàm
Thời được dũng kiện không ai hơn.
Nếu khi nào chúng ta thấy lợi mình, lợi người được đầy đủ không chướng ngại, thì không chán sanh tử. Tại sao? Bởi trong sanh tử làm lợi ích cho mình, cho người chứ không phải vào sanh tử chịu khổ. Người tu có hai thứ bệnh thật đáng thương, một là bệnh sợ mất thân mình, hai là sợ trở lại sanh tử. Người không sợ sanh tử là người dũng kiện.
Nếu được dũng kiện không ai hơn
Thời hay phát khởi đại thần thông
Nếu hay phát khởi đại thần thông
Thời biết hạnh tất cả chúng sanh.
Nếu được dũng kiện không ai bì nổi thì sẽ có thần thông, nếu có thần thông liền biết được hạnh của tất cả chúng sanh. Bởi vì đối với sanh tử, hiểm nguy không sợ thì người đó còn sợ những gì? Đã không sợ hai thứ đó thì ở đâu cũng làm lợi ích chúng sanh, đều có phương tiện giúp đỡ họ nên gọi là thần thông.
Nếu biết hạnh tất cả chúng sanh
Thời hay thành tựu các quần sanh
Nếu hay thành tựu các quần sanh
Thời được trí khéo nhiếp chúng sanh.
Nếu biết được hạnh của chúng sanh thì mới thành tựu cho họ, nếu thành tựu cho họ thì có trí khéo léo nhiếp họ được an ổn.
Nếu được trí khéo nhiếp chúng sanh
Thời hay thành tựu pháp tứ nhiếp
Nếu hay thành tựu pháp tứ nhiếp
Thời cho chúng sanh lợi vô hạn.
Nếu khéo nhiếp chúng sanh thì thành tựu được tứ nhiếp pháp. Thành tựu tứ nhiếp pháp rồi thì lợi ích chúng sanh vô hạn. Tứ nhiếp pháp là:
1) Bố thí.
2) Ái ngữ: Lời nói êm dịu nhẹ nhàng hòa nhã.
3) Lợi hành: Làm gì lợi cho người.
4) Đồng sự.
Nếu cho chúng sanh lợi vô hạn
Thời đủ phương tiện trí tối thắng
Nếu đủ phương tiện trí tối thắng
Thời trụ đạo dũng mãnh vô thượng.
Nếu làm lợi cho chúng sanh vô hạn thì được phương tiện trí tối thắng. Nếu được phương tiện trí tối thắng thì được dũng mãnh vô thượng.
Nếu trụ đạo dũng mãnh vô thượng
Thời hay xô dẹp những ma lực
Nếu hay xô dẹp những ma lực
Thời hay vượt khỏi cảnh tứ ma.
Nếu trụ đạo dũng mãnh vô thượng thì những ma lực không làm gì phá phách được, cho nên hay xô dẹp hết những sức của ma. Nếu sức ma dẹp hết rồi thì hay vượt cảnh tứ ma. Tứ ma là: Một là thiên ma ở cõi trời, hai là tử ma chướng ngại, ba là ngũ ấm ma che đậy, bốn là phiền não ma.
Nếu hay vượt khỏi cảnh tứ ma
Thời được đến nơi bậc bất thối
Nếu được đến nơi bậc bất thối
Thời được pháp nhẫn vô sanh lớn.
Nếu người nào vượt khỏi tứ ma thì được bậc bất thối chuyển. Người nào được bất thối chuyển thì được vô sanh pháp nhẫn.
Nếu được pháp nhẫn vô sanh lớn
Thời được chư Phật thọ ký cho
Nếu được chư Phật thọ ký cho
Thời tất cả Phật hiện ra trước.
Nếu ai được vô sanh pháp nhẫn thì được Phật thọ ký. Nếu được Phật thọ ký thì người đó thường thấy Phật.
Nếu được chư Phật hiện ra trước
Thời rõ mật dụng thần thông lớn
Nếu rõ mật dụng thần thông lớn
Thời được chư Phật thường nhớ tưởng.
Nếu ai thường thấy Phật hiện ra thì người đó được thần thông. Người được thần thông thì chư Phật thường nhớ tưởng.
Nếu được chư Phật thường nhớ tưởng
Thời dùng Phật đức tự trang nghiêm
Nếu dùng Phật đức tự trang nghiêm
Thời được thân đoạn nghiêm diệu phước.
Nếu người được Phật nhớ tưởng thì người đó dùng công đức Phật tự trang nghiêm cho mình. Nếu lấy công đức Phật trang nghiêm cho mình thì thân được trang nghiêm đầy đủ diệu phước.
Nếu được thân đoạn nghiêm diệu phước
Thời thân chói sáng dường núi vàng
Nếu thân chói sáng dường núi vàng
Thời đủ ba mươi hai tướng hảo.
Nếu được thân diệu phước rồi thì thân sáng chói như vàng, được thân sáng chói như vàng thì đầy đủ ba mươi hai tướng đẹp.
Nếu đủ ba mươi hai tướng hảo
Tám mươi tùy hảo đồng nghiêm sức
Nếu đủ tùy hảo đồng nghiêm sức
Thời thân sáng chói vô hạn lượng.
Nếu người đầy đủ ba mươi hai tướng tốt thì theo đó được tám mươi vẻ đẹp, nếu được tám mươi vẻ đẹp thì thân sáng chói vô hạn lượng.
Nếu thân sáng chói vô hạn lượng
Thời được quang minh bất tư nghị
Nếu được quang minh bất tư nghị
Quang minh này hiện những liên hoa.
Nếu ai được thân sáng chói vô lượng thì được hào quang bất tư nghì, được hào quang bất tư nghì thì liền hiện những hoa sen.
Những liên hoa từ quang minh hiện
Có vô lượng Phật ngự trên liên hoa
Thị hiện mười phương đều khắp cả
Đều hay điều phục các chúng sanh.
Nếu được hoa sen hiện trong ánh sáng, lúc đó liền thấy chư Phật ngự trên hoa sen ở khắp mười phương, điều phục tất cả chúng sanh.
Nếu hay điều phục các chúng sanh
Thời hiện vô lượng thần thông lực
Nếu hiện vô lượng thần thông lực
Thời trụ bất tư nghị cõi nước.
Nếu điều phục được tất cả chúng sanh thì hiện sức thần thông vô lượng, được trụ cõi nước không thể nghĩ bàn.
Nếu trụ bất tư nghị cõi nước
Thời diễn thuyết bất tư nghị pháp
Nếu diễn thuyết bất tư nghị pháp
Khiến bất tư nghị chúng hoan hỷ.
Nếu khiến bất tư nghị chúng hoan hỷ
Thời dùng sức trí tuệ, biện tài
Tùy tâm chúng sanh mà giáo hóa.
Nếu dùng sức trí tuệ, biện tài
Tùy tâm chúng sanh mà giáo hóa
Thời dùng trí tuệ làm tiên đạo
Thân, ngữ, ý, thường không lầm lỗi.
Nếu người nào thuyết pháp được tất cả mọi người nghe không thể nghĩ bàn, ai nghe cũng đều hoan hỷ thì người đó được biện tài vô ngại. Tùy tâm giáo hóa chúng sanh nghĩa là họ có bệnh gì, sở thích gì đều giáo hóa được. Nếu tùy tâm chúng sanh giáo hóa, là dùng trí tuệ đi trước dẫn đường. Nếu được những thứ ấy thì thân, ngữ, ý đều không lầm lỗi.
Nếu dùng trí tuệ làm tiên đạo
Thân ngữ ý thường không lầm lỗi
Thời nguyện lực tất được tự tại
Tùy theo các loài mà hiện thân.
Người nào làm điều gì cũng do trí tuệ hướng dẫn thì thân ngữ ý không còn lầm lỗi, nguyện lực của người đó sẽ được tự tại, tùy theo các loại chúng sanh mà hiện thân.
Nếu nguyện lực ấy được tự tại
Tùy theo các loài mà hiện thân
Thời lúc tùy chúng, mà thuyết pháp
Âm thanh tùy loại, khó nghĩ bàn.
Nếu người nào được nguyện lực tự tại rồi, thì tùy theo sở thích chúng sanh mà hiện thân giống như họ để thuyết pháp, âm thanh phát ra mọi loài đều biết hết.
Nếu lúc tùy chúng, mà thuyết pháp
Âm thanh tùy loại, khó nghĩ bàn
Thời với tâm tất cả chúng sanh
Một niệm biết cả không thừa sót.
Khi được âm thanh không thể nghĩ bàn thì lúc đó trong một niệm, tất cả tâm chúng sanh mình đều biết hết không thừa, không sót.
Nếu với tâm tất cả chúng sanh
Một niệm biết cả không thừa sót.
Thời biết phiền não không từ đâu
Trọn không còn chìm trong sanh tử.
Nếu biết được tất cả tâm niệm chúng sanh thì sẽ biết phiền não không có gốc. Phiền não không có gốc thì trọn không còn chìm trong sanh tử, ngay đó giải thoát sanh tử.
Nếu biết phiền não không từ đâu
Trọn không còn chìm trong sanh tử
Thời được thân công đức pháp tánh
Dùng pháp oai lực hiện thế gian.
Nếu biết phiền não không có gốc thì không còn chìm trong sanh tử. Nếu hết sanh tử thì mọi thân công đức lành từ pháp tánh mà sanh, hiện đủ mọi oai lực.
Nếu được thân pháp tánh công đức
Dùng pháp oai lực hiện thế gian
Thời được thập địa, mười tự tại
Tu hành các độ, thắng giải thoát.
Nếu được thân pháp tánh công đức, thì dùng pháp oai lực đó hiện ở thế gian. Khi ấy chứng được mười địa mười tự tại, tu hành các độ, thắng giải thoát.
Nếu được thập địa, mười tự tại
Tu hành các độ, thắng giải thoát
Thời được quán đảnh đại thần thông
Trụ nơi tối thắng các tam-muội.
Nếu người nào chứng được mười địa mười tự tại rồi, tu hành các độ thắng giải thoát thì được quán đảnh đại thần thông, trụ nơi các tam-muội tối thắng.
Nếu được quán đảnh đại thần thông
Trụ nơi tối thắng các tam-muội
Thời khắp mười phương chỗ chư Phật
Đáng thọ quán đảnh được thắng vị.
Nếu ở một chỗ Phật được Phật quán đảnh, được đại thần thông, trụ trong chánh định tối thắng thì cũng thấy mình ở chỗ mười phương chư Phật được quán đảnh, được ngôi vị thù thắng.
Nếu khắp mười phương chỗ chư Phật
Đáng thọ quán đảnh được thắng vị
Thời được tất cả Phật mười phương
Tay lấy cam lộ rưới trên đánh.
Nếu được mười phương chư Phật quán đảnh thì cũng được mười phương chư Phật rưới nước cam lồ trên đảnh.
Nếu được tất cả Phật mười phương
Tay lấy cam lộ rưới trên đảnh
Thời thân đầy khắp như hư không
An trụ bất động khắp mười phương.
Nếu được mười phương chư Phật rưới nước cam lồ trên đảnh thì thấy thân mình biến khắp hư không, không còn giới hạn. Lúc đó an trụ bất động khắp cả mười phương.
Nếu thân đầy khắp như hư không
An trụ bất động khắp mười phương.
Thời chỗ sở hành không ai bằng
Chư thiên, người đời chẳng biết được.
Nếu được thân khắp hư không, an trụ ở mười phương thì chỗ sở hành của mình không ai bì được, chư thiên người đời không ai biết.
Bồ-tát siêng tu hạnh đại bi
Nguyện độ tất cả đều trọn vẹn
Nếu ai nghe thấy mà cúng dường
Đều làm cho họ được an lạc.
Bồ-tát chuyên tu hạnh từ bi nên nguyện độ hết tất cả chúng sanh, trọn vẹn không thiếu sót. Nếu có người nghe thấy cúng dường thì Bồ-tát đều làm cho họ được lợi lạc lớn.
Thần lực của chư Bồ-tát kia
Pháp nhãn toàn vẹn không khuyết giảm
Những đạo diệu hạnh thập thiện thảy
Thắng bảo vô thượng đều khiến hiện.
Như báu kim cang trong đại hải
Do oai lực này sanh các báu;
Không tăng, không giảm, cũng vô tận
Công đức của Bồ-tát cũng vậy.
Bồ-tát có được công đức pháp nhãn không thiếu, không giảm, nên các diệu hạnh thập thiện và vô thượng thắng bảo đều khiến hiện tiền như kim cương trong biển cả. Tất cả những thứ báu đó đều từ oai lực của Bồ-tát mà sanh ra, không tăng không giảm. Công đức của Bồ-tát cũng như vậy.
Hoặc có quốc độ không có Phật
Bồ-tát nơi đó hiện thành Phật,
Nếu có quốc độ chẳng biết Pháp
Nơi đó Bồ-tát thuyết diệu pháp.
Không có phân biệt, không công dụng
Như mặt nguyệt sáng chiếu khắp nơi
Vô lượng phương tiện độ quần sanh.
Ở trong mười phương các thế giới
Niệm niệm thị hiện thành Phật đạo
Chuyển chánh pháp luân vào tịch diệt
Nhẫn đến xá-lợi phân bố rộng.
Thế giới nào không có Phật thì Bồ-tát thị hiện thành Phật để giáo hóa chúng sanh. Thế giới nào không biết pháp thì Bồ-tát thị hiện để thuyết pháp. Tất cả công dụng đó hiện khắp cả mười phương mà không có niệm dấy khởi. Tâm Bồ-tát như mặt trăng chiếu sáng khắp hết mà không dấy niệm. Bồ-tát mỗi niệm thị hiện thành Phật đạo, chuyển pháp luân, nhập Niết-bàn, rồi phân chia xá lợi.
Hoặc hiện Thanh văn cùng Độc giác
Hoặc hiện thành Phật khắp trang nghiêm
Như vậy khai diễn pháp ba thừa
Rộng độ chúng sanh vô lượng kiếp.
Hoặc hiện thân đồng nam đồng nữ
Trời rồng nhẫn đến a-tu-la,
Cùng với ma-hầu-la-già thủy
Tùy chúng sở thích đều khiến thấy,
Chúng sanh hình tướng đều chẳng đồng
Hành nghiệp, âm thanh cũng vô lượng
Tất cả như vậy đều hiện được
Hải ấn tam-muội oai thần lực.
Trong khoảng một niệm khắp mười phương.
Bồ-tát hiện hình tướng Thanh văn, Độc giác hay Phật để nói giáo lý tam thừa độ khắp chúng sanh. Có khi hiện thân đồng nam, đồng nữ, có khi hiện thân a-tu-la, ma-hầu-la-già… Tất cả là do sở thích của chúng sanh, hiện cho họ thấy để giáo hóa, hình tướng âm thanh đều đồng với họ. Tất cả công đức diệu dụng đó đều do sức hải ấn tam-muội của Phật hiện ra.
Nghiêm tịnh bất tư nghị quốc độ
Cúng dường tất cả chư Như Lai
Phóng đại quang minh vô lượng biên
Độ thoát chúng sanh cũng vô hạn.
Trí tuệ tự tại, bất tư nghị
Ngôn từ thuyết pháp không chướng ngại
Thí, giới, nhẫn, tấn và thiền định
Trí tuệ, phương tiện, thần thông thủy.
Tất cả như vậy đều tự tại
Do Phật hoa nghiêm tam-muội lực.
Trong một vị trần nhập tam-muội
Thành tựu vi trần tất cả định
Khi Bồ-tát muốn thị hiện trang nghiêm cõi nước và cúng dường chư Phật, ngài liền phóng quang sáng vô lượng vô biên, độ thoát chúng sanh không thể nghĩ bàn. Phương tiện độ thoát chúng sanh bằng cách nào? Tức là ngài dùng trí tuệ tự tại không thể nghĩ bàn, những ngôn từ thuyết pháp không chướng ngại, như bố thí, trì giới, nhẫn nhục, tinh tấn, thiền định, trí tuệ, thần thông… tất cả đều được tự tại. Dùng sức Hoa Nghiêm tam-muội của chư Phật mà trong một vị trần nhập tam-muội, thành tựu tất cả vi trần đều nhập tam-muội. Tại sao?
Vì tất cả pháp lớn nhỏ chỉ là giả danh, giả tướng. Nếu ngộ được lý chân thật rồi thì những giả danh giả tướng không còn. Cho nên một hạt vi trần hay muôn ức hạt vi trần cũng không hai.
Mà vi trần kia cũng không thêm
Nơi một hiện khắp vô biên cõi.
Trong một trần kia, nhiều quốc độ
Hoặc là có Phật, hoặc không Phật,
Hoặc là tạp nhiễm, hoặc thanh tịnh
Hoặc cõi rộng lớn, hoặc hẹp nhỏ
Hoặc có cõi thành, hoặc là hoại
Hoặc cõi chánh trụ, hoặc bàng trụ,
Hoặc như ánh nắng giữa đồng trống
Hoặc như lưới Thiên đế trên trời,
Như chỗ thị hiện trong một trần
Tất cả vị trần đều như vậy,
Đây là những thánh nhân cao cả
Tam-muội, giải thoát thần thông lực.
Khi Bồ-tát dùng thần lực nhập định ở trong một hạt bụi thì vô biên cõi nước, vô biên hạt bụi khác cũng thấy Bồ-tát nhập định ở trong đó, rồi hiện lên chỗ có Phật hoặc không Phật, hoặc tạp nhiễm hoặc thanh tịnh… các cõi nước thành, hoại, chánh trụ, bàng trụ… đều thị hiện được hết. Đây là sức thần thông tam-muội của bậc thánh nhân cao cả.
Nếu muốn cúng dường tất cả Phật
Nhập nơi tam-muội khởi thần thông
Hay dùng một tay khắp đại thiên
Cúng khắp tất cả vô số Phật.
Bao nhiêu hoa đẹp ở mười phương
Hương thoa, hương bột, báu vô giá
Đều từ trong tay xuất hiện ra
Cúng dường chư Phật ngự đạo thọ.
Bảo y vô giá, xen hương diệu
Bảo tràng phan, lọng đều xinh đẹp
Vàng rồng làm hoa, ngọc làm màn
Tất cả đều từ trong tay hiện.
Bao nhiêu vật tốt ở mười phương
Đáng đem phụng hiến đấng vô thượng
Trong tay tất cả đều hiện đủ
Trước cây bồ-đề cúng chư Phật.
Tất cả kỹ nhạc ở mười phương
Chung, cổ, cầm, sắc đủ các loại
Đồng tấu hòa nhã âm thanh diệu
Đều từ bàn tay xuất hiện ra.
Nếu phát tâm cúng dường chư Phật đang ngồi dưới cây bồ-đề, Bồ-tát ở trong định hiện ra đầy đủ phẩm vật như y báu, tràng báu, vàng ròng trong tay… để phụng hiến các ngài.
Bao nhiêu tán tụng ở mười phương
Ca ngợi thật đức của chư Phật
Như vậy các thứ diệu ngôn từ
Đều từ bàn tay mà khai diễn.
Bồ-tát tay mặt phóng tịnh quang
Trong quang rưới ra nước thơm sạch
Rưới khắp mười phương các quốc độ
Cúng dường tất cả Chiếu Thế Đăng.
Lại phóng quang minh diệu trang nghiêm
Xuất sanh vô lượng hoa sen báu
Hoa này hình sắc đều rất đẹp
Dùng đây cúng dường lên chư Phật.
Lại phóng quang minh hoa trang nghiêm
Các thứ diệu hoa hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả đấng Đại đức.
Ở đây, bàn tay mặt của Bồ-tát lại phóng hào quang, trong hào quang sáng có đủ những thứ để cúng dường chư Phật.
Lại phóng quang minh hương trang nghiêm
Các thứ diệu hương hợp làm trướng,
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả đấng Đại đức.
Trong hào quang đó lại có những hương thơm rất nhiệm mầu, chan rải khắp cõi nước ở mười phương để cúng dường chư Phật.
Lại phóng quang minh mạt hương tốt
Các thứ mạt hương hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả đấng Đại đức.
Trong bàn tay lại phóng ra quang minh các mạt hương tốt. Các mạt hương làm màn làm trướng, rải khắp cõi nước ở mười phương cúng dường chư Phật.
Lại phóng quang minh y trang nghiêm
Các thứ y phục hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả đấng Đại đức.
Trong hào quang đó lại có những thứ y phục rất đẹp, họp thành màn trướng rải khắp cõi nước ở mười phương, cúng dường tất cả các đức Phật.
Lại phóng quang minh bảo trang nghiêm
Các thứ diệu bảo hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả đấng Đại đức.
Lại phóng hào quang bảo trang nghiêm, những ngọc báu đẹp đẽ nhất hợp thành màn trướng rải khắp cõi nước ở mười phương cúng dường tất cả các đức Phật.
Lại phóng quang liên hoa trang nghiêm
Các thứ liên hoa hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả đấng Đại đức.
Lại phóng hào quang các hoa sen, hợp thành màn trướng rải khắp cõi nước ở mười phương, cúng dường tất cả các đức Phật.
Lại phóng quang anh lạc trang nghiêm
Các thứ chuỗi ngọc hợp làm trướng
Rải khắp cõi nước ở mười phương
Cúng dường tất cả đấng Đại đức.
Lại phóng hào quang chuỗi anh lạc, hợp làm trướng rải khắp cõi nước ở mười phương cúng dường tất cả các đức Phật.
Lại phóng quang minh tràng trang nghiêm
Bảo tràng rực rỡ đủ màu đẹp
Các loại vô lượng đều rất tốt
Dùng đây trang nghiêm các Phật độ.
Các thứ báu đẹp lọng trang nghiêm
Những phan lụa đẹp treo rủ xuống
Chuông báu ma-ni, diễn Phật âm
Đem đến kính dâng cúng chư Phật.
Lại phóng hào quang cờ báu lọng báu, làm bằng những thứ lụa đẹp treo rủ xuống, trong đó có chuông báu ma-ni diễn ra những tiếng Phật, đem cúng dường Phật.
Tay hiện đồ cúng bất tư nghị
Như vậy cúng dường một Đạo sư
Nơi tất cả Phật đều như vậy
Đây là thần lực của Đại sĩ.
Bàn tay của Bồ-tát hiện những thứ bất tư nghì, không chỉ cúng dường một đức Phật mà cúng dường tất cả chư Phật, đó là thần lực của Bồ-tát.
Bồ-tát trụ trong môn tam-muội
Các thứ tự tại nhiếp chúng sanh
Đều đem pháp công đức đã làm
Vô lượng phương tiện để chỉ dạy.
Ở trong chánh định nhiếp hóa chúng sanh, dùng rất nhiều phương tiện để chỉ dạy cho họ.
Hoặc dùng môn cúng dường Như Lai
Thanh Hoặc dùng môn nhẫn nhục bất động
Hoặc dùng môn khổ hạnh tinh tấn
Hoặc dùng môn thiền định tịch tịnh
Hoặc dùng môn trí tuệ quyết rõ
Hoặc dùng môn phương tiện tu hành
Hoặc dùng môn phạm trụ, thần thông
Hoặc dùng môn tứ nhiếp lợi ích,
Hoặc dùng môn phước trí trang nghiêm
Hoặc dùng môn nhân duyên, giải thoát
Hoặc dùng môn căn, lực, chánh đạo
Hoặc dùng môn Thanh văn giải thoát,
Hoặc dùng môn Độc giác thanh tịnh
Hoặc dùng môn Đại thừa tự tại
Hoặc dùng môn Vô thường các khổ
Hoặc dùng môn Vô ngã, Vô thọ,
Hoặc dùng môn Bất tịnh, Ly dục
Hoặc dùng môn Diệt tận tam-muội.
Tùy theo chúng sanh bệnh chẳng đồng
Đều dùng pháp dược để đối trị.
Bồ-tát khi nhập định, muốn nhiếp phục giáo hóa chúng sanh, các ngài dùng nhiều môn phương tiện hướng dẫn khuyến khích họ, cúng dường chư Phật.
Tùy theo chúng sanh tâm sở thích
Đều dùng phương tiện khiến đầy đủ.
Tùy theo chúng sanh hạnh sai biệt
Đều dùng chước khéo khiến thành tựu.
Những tướng tam-muội thần thông ấy
Tất cả trời người chẳng lường được.
Có diệu tam-muội tên Tùy Lạc
Bồ-tát trụ đây, khắp quan sát
Tùy nghi thị hiện độ chúng sanh
Đều khiến vui lòng theo chánh pháp.
Sở dĩ Bồ-tát làm được bao nhiêu việc đó là đều nhắm vào tâm sở thích của chúng sanh, các ngài biết dùng phương tiện chuyển hóa khiến họ đầy đủ công hạnh tu hành.
Trong thời kiếp nạn cơ cẩn,
Ban cho thế gian đồ cần thiết
Tùy chỗ họ muốn đều khiến đủ
Khắp vì chúng sanh làm lợi ích.
Trong thời đói khát nghèo khổ, Bồ-tát hiện ra những thứ cần thiết ban bố cho chúng sanh, khiến họ đều được lợi ích.
Hoặc cho những vật uống, ăn ngon
Y phục, tư trang, những vật tốt
Cả đến ngôi vua, đều xả được
Khiến kẻ ưa thí theo chánh pháp.
Bồ-tát mang những thứ uống ăn, tư trang, những vật tốt, cả đến ngôi vua cũng thí xả cho. Bố thí như vậy khiến chúng sanh ưa bố thí, nương theo Phật pháp tu hành.
Hoặc dùng tướng hảo trang nghiêm thân
Y phục thượng diệu, chuỗi ngọc báu
Tràng hoa nghiêm sức, hương thoa thân
Oai nghi đầy đủ, độ hàm thức.
Trong trường hợp này, Bồ-tát dùng thân tướng tốt đẹp, mặc y phục thượng diệu, mang chuỗi ngọc tràng hoa tốt đẹp, dùng hương thơm xoa thân. Tất cả những oai nghi đầy đủ để độ chúng sanh.
Tất cả thế gian chỗ ưa chuộng
Sắc tướng, dung nhan và y phục
Tùy nghi hiện đủ, vui lòng họ
Khiến kẻ ưa sắc theo chánh pháp.
Những gì thế gian ưa chuộng, như dung nhan, y phục… các ngài đều hiện đủ khiến họ vui lòng.
Tiếng ca-lăng-tần-già mỹ diệu
Âm thanh diệu câu-chỉ-la thảy
Những thứ phạm âm đều đầy đủ
Tùy lòng họ thích vì thuyết pháp.
Tám vạn bốn ngàn các pháp môn
Chư Phật dùng đây độ chúng sanh
Bồ-tát cũng theo pháp sai biệt
Tùy nghi theo đời mà hóa độ.
Tám mươi bốn ngàn pháp môn của chư Phật, Bồ-tát cũng dùng tùy theo tâm chúng sanh mà hóa độ.
Chúng sanh khổ, lạc, lợi, suy thủy
Những việc thật hành của thế gian
Đều hay ứng hiện đồng với họ
Dùng đây phổ độ các chúng sanh.
Tất cả thế gian những khổ hoạn
Sâu rộng không bờ như đại hải
Đồng sự với họ đều chịu được
Khiến họ lợi ích được an vui.
Bồ-tát thực hành hạnh đồng sự, cùng chịu những nổi khổ nhiều như biển cả của chúng sanh, khiến họ được lợi ích an vui.
Có người chẳng biết pháp xuất ly
Chẳng cầu giải thoát lìa ồn náo
Vì họ Bồ-tát hiện thí xả
Thường ưa xuất gia tâm tịch tịnh.
Những người sanh ra trong gia đình khá giả thường không thích xuất ly, Bồ-tát vì họ mà thác sanh trong đó, thực hiện hạnh thí xả, ưa thích xuất gia, tâm tịch tịnh.
Nhà là chốn tham ái ràng buộc
Muốn khiến chúng sanh đều lìa khỏi
Nên hiện xuất gia được giải thoát
Với các dục lạc không ưa thích.
Nhà là chốn tham ái ràng buộc, muốn khiến chúng sanh đều lìa khỏi, nên các ngài xuất gia tu hạnh giải thoát, không còn ưa thích dục lạc nữa.
Bồ-tát hiện làm mười công hạnh
Cũng làm tất cả pháp đại nhân
Làm hạnh chư tiên đều không sót
Vì muốn chúng sanh được lợi ích.
Bồ-tát tu không phải một hạnh mà tất cả hạnh. Tùy theo trường hợp Bồ-tát hành các hạnh mà chúng sanh đang khao khát mong cầu, như hạnh chư tiên và các hạnh khác, không sót một hạnh nào.
Nếu có chúng sanh thọ vô lượng
Phiền não vi tế, vui đầy đủ
Trong đó Bồ-tát được tự tại
Hiện thọ các khổ già, bệnh, chết.
Nếu có chúng sanh được sống lâu, tuổi thọ vô lượng, phiền não ít mà vui nhiều. Bồ-tát tự tại hiện thọ các khổ già, bệnh, chết để cảnh tỉnh chúng sanh trong ấy.
Hoặc kẻ tham dục, sân, ngu si
Lửa mạnh phiền não luôn hừng cháy
Bồ-tát thị hiện già, bệnh, chết
Khiến chúng sanh đó đều điều phục.
Với người tham dục, sân nhuế, ngu si bị phiền não thiêu đốt, Bồ-tát cũng thị hiện già, bệnh, chết để thức tỉnh và điều phục họ.
Như Lai thập lực, vô sở úy
Cùng với mười tám pháp bất cộng
Tất cả vô lượng các công đức
Đều đem thị hiện độ chúng sanh.
Bồ-tát dùng thập lực, tứ vô sở úy, thập bát bất cộng pháp, vô lượng công đức đều đem thị hiện độ chúng sanh, khiến họ được thức tỉnh.
Thọ ký, giáo hóa và thần túc
Đều là sức tự tại của Phật
Chư Đại sĩ kia đều thị hiện
Hay khiến chúng sanh đều điều phục.
Những việc thọ ký, giáo hóa, hiện thần thông đều là sức tự tại của Phật, Bồ-tát cũng thị hiện những việc đó để điều phục chúng sanh.
Bồ-tát đem các môn phương tiện
Tùy thuận thế pháp độ chúng sanh
Ví như liên hoa chẳng dính nước
Tại thế như vậy, khiến người tin.
Bồ-tát dùng tất cả phương tiện tùy theo thế tục mà độ chúng sanh. Khi độ chúng sanh các ngài không dính mắc, giống như hoa sen không dính nước.
Là vua văn tài, học uyên bác
Ca vũ, luận bàn, người đều thích
Tất cả kỹ thuật trong thế gian
Như nhà ảo thuật đều hiện đủ.
Bồ-tát có khi thị hiện làm vua, tài học uyên bác hoặc làm những người ca vũ, lý luận, tất cả kỹ thuật trong thế gian đều tinh thông, nhưng giống như nhà ảo thuật không đắm trước, không mắc kẹt.
Hoặc làm trưởng giả, chủ trong ấp
Hoặc làm thương mãi, người buôn bán
Hoặc làm quốc vương cùng quan lớn
Hoặc làm lương y, nhà hùng biện.
Hoặc làm cây to giữa cánh đồng
Hoặc làm thuốc hay, những kho báu
Hoặc làm bảo châu như ý vương
Hoặc đem chánh đạo dạy chúng sanh.
Bồ-tát thị hiện trong cõi người hoặc làm trưởng giả chủ ấp, nhà buôn, làm vua, thầy thuốc, nhà hùng biện… Có khi hiện làm cây to che mát ngoài đồng, hoặc những cây thuốc trị bệnh, kho báu, bảo châu như ý muốn gì được nấy, hoặc đem chánh đạo dạy chúng sanh.
Nếu thấy thế giới mới thành lập
Chúng sanh chưa có vật cần dùng
Bấy giờ Bồ-tát làm công thợ
Vì họ bày ra các nghề nghiệp.
Nếu thấy thế giới mới thành lập, chúng sanh chưa biết làm ra vật dụng, Bồ-tát thị hiện làm thợ giỏi chỉ dạy các nghề nghiệp, giúp họ biết làm ăn.
Chẳng làm vật bức não chúng sanh
Chỉ nói chuyện thế gian lợi ích
Các luận, chú thuật, dược thảo thảy
Tất cả như vậy đều nói rành.
Bồ-tát không làm điều gì chướng ngại, đau khổ cho chúng sanh, chỉ thị hiện để giáo hóa đem lại sự an ổn cho họ thôi.
Thắng hạnh của tất cả tiên nhân
Trời người, mọi loài đều tín ngưỡng
Những pháp khổ hạnh khó làm đó
Bồ-tát tùy nghi đều làm được.
Nếu ai tu khổ hạnh đặc biệt thì Bồ-tát hiện tu khổ hạnh để giáo hóa họ.
Hoặc làm người xuất gia ngoại đạo
Hoặc ở núi rừng tự cần khổ
Hoặc để mình trần, không y phục
Mà làm sư trưởng của chúng kia.
Hoặc hiện những hạnh tà mạng thảy
Tập làm phi pháp cho là thắng
Hoặc hiện oai nghi, làm Phạm chí
Ở trong chúng kia làm thượng thủ.
Hoặc chịu ngũ nhiệt, phơi dưới nắng
Hoặc giữ giới bò, chó và nai
Hoặc mặc áo rách, phụng thờ lửa
Vì độ chúng kia, làm sư trưởng.
Đối với ngoại đạo tu khổ hạnh, giữ giới bò chó nai… hoặc ngoại đạo tà kiến, thờ lửa… Bồ-tát đều thị hiện khổ hạnh thù thắng hơn họ, để làm thầy giáo hóa và hướng dẫn họ quay về với Phật pháp.
Hoặc hiện ngồi xổm, hoặc co chân
Hoặc nằm cỏ gai, hoặc trên tro
Hoặc dùng chày đập, cầu xuất ly
Mà ở chúng kia làm sư thủ.
Như vậy các phái, các ngoại đạo
Quan sát ý giải cùng đồng sự
Hiện làm khổ hạnh đời chẳng kham
Khiến họ xem thấy đều điều phục.
Chúng sanh mê lầm theo tà giáo
Trụ nơi ác kiến, thọ những khổ
Vì họ phương tiện, nói diệu pháp
Đều khiến được hiểu lý chân thật.
Tất cả những hạnh ngoại đạo tu, dù cho khổ hạnh lớn lao đến đâu, Bồ-tát cũng thị hiện bằng để họ kính nể, rồi giáo hóa họ trở về chánh pháp.
Hoặc theo chủ ngữ nói tứ đế
Hoặc giỏi mật ngữ nói tứ đế
Hoặc dùng tiếng người nói tứ đế
Hoặc hiện yết kiến các thiên miếu
Hoặc trời mật ngữ nói tứ đế.
Hoặc lại thị hiện xuống sông Hằng
Ăn củ, trái thảy, đều hiện làm
Nơi đó thường suy pháp tối thắng.
Bồ-tát có khi hiện làm người thờ cúng các miếu thần, hoặc thị hiện tắm nước sông Hằng, hoặc ăn củ quả… thị hiện tất cả việc ấy để hướng chúng sanh đến pháp tối thắng.
Phân biệt văn tự, nói tứ đế
Quyết định nghĩa lý, nói tứ đế
Khéo phá nơi người, nói tứ đế
Chẳng bị dao động, nói tứ đế,
Hoặc tiếng bát bộ, nói tứ đế
Hoặc tất cả lời, nói tứ đế
Tùy ngôn âm thế gian hiểu được
Diễn thuyết tứ đế, khiến giải thoát.
Tất cả bao nhiêu các Phật pháp
Đều nói như vậy đủ tất cả
Biết cảnh giới lời bất tư nghị
Đây là thuyết pháp tam-muội lực.
Sức thuyết pháp của Bồ-tát công đức không thể lường, các ngài tùy theo sự hiểu biết của chúng sanh mà nói pháp thích ứng giáo hóa khiến cho họ giải thoát, không dùng một phương tiện cố định nào.
Có thắng tam-muội tên An Lạc
Hay khắp cứu độ các quần sanh
Phóng đại quang minh bất tư nghị
Khiến ai được thấy đều điều phục.
Quang minh đã phóng tên Thiện Hiện
Nếu có ai gặp quang minh này
Tất được lợi ích chẳng luống uổng
Nhân đây được thành trí vô thượng,
Bồ-tát trước hiện nơi chư Phật
Hiện Pháp, hiện Tăng, hiện chánh đạo
Cũng hiện tháp Phật và hình tượng
Vì thế nên thành quang minh này.
Đây nói tu nhân của Bồ-tát nên được quả quang minh, hay phóng ánh sáng lớn khiến chúng sanh được điều phục. Có quang minh tên Thiện Hiện, người chạm quang minh này đều biết trở về điều thiện, được lợi ích không luống uổng, trọn đời tu tiến, không bỏ qua vô ích, được thành trí vô thượng. Do quang minh hiện thân Phật, Bồ-tát, pháp, tăng… nên thành tựu như thế.
Lại phóng quang minh tên Chiếu Diệu
Chói lấn tất cả sáng chư thiên
Bao nhiêu ám chướng đều tiêu trừ
Khắp vì chúng sanh làm lợi ích.
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến cầm đèn sáng cúng dường Phật
Do dùng đèn sáng cúng dường Phật
Được thành thế gian Vô Thượng Đăng.
Thắp những đèn dầu và đèn tô
Cũng thắp các thứ đuốc sáng tỏ
Những ngọn nến báu thơm đẹp nhất
Dùng đây cúng Phật được quang này.
Lại có hào quang tên Chiếu Diệu soi sáng nhiệm mầu, tất cả hào quang của chư thiên đều bị phủ trùm không thể bì kịp, khiến bao nhiêu ám chướng của chúng sanh đều được tiêu trừ, ai chạm đến hào quang này đều được giác ngộ. Dùng các thứ đèn, đuốc, nến báu thơm cúng Phật mà được quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Tế Độ
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến họ phát tâm đại thệ nguyện
Độ thoát quần sanh trong dục hải
Nếu hay phát được tâm đại thệ
Độ thoát quần sanh trong dục hải
Thời hay vượt qua bốn dòng nước
Bước đến thành vô ưu giải thoát.
Nơi những đường đi ngang sông lớn
Xây cất cầu đò và thuyền bè
Quở rầy hữu vi, khen tịch tịnh
Do đây được thành quang minh này.
Lại có hào quang tên Tế Độ, chúng sanh chạm tới đều hướng về Phật đạo, nguyện độ thoát chúng sanh qua biển ái dục. Nếu phát nguyện lớn như thế thì vượt qua bốn dòng nước sanh lão bệnh tử, đến thành giải thoát không còn lo buồn. Do nhân xây cất cầu đò, làm thuyền bè qua sông, quở rầy pháp hữu vi… mà thành tựu quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Diệt Ái
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến họ xa lìa cảnh ngũ dục
Gẫm suy diệu vị pháp giải thoát.
Nếu hay bỏ lìa cảnh ngũ dục
Gẫm suy diệu vị pháp giải thoát
Thời hay dùng Phật pháp cam lồ
Rưới tắt thế gian những khát ái.
Bố thí ao, giếng và khe suối
Chuyên cầu Bồ-đề đạo vô thượng
Quở trách ngũ dục, khen thiền định
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Diệt Ái, chúng sanh nào chạm được hào quang này thì xa lìa ngũ dục, suy gẫm diệu vị pháp giải thoát… Sở dĩ được hào quang như vậy là do bố thí ao giếng… luôn quở trách ngũ dục, khen ngợi thiền định.
Lại phóng quang minh tên Hoan Hỷ
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến họ ái mộ Phật Bồ-đề
Phát tâm nguyện chứng vô sư đạo.
Tạo lập Như Lai tượng đại bi
Tướng hảo trang nghiêm, ngự liên tòa
Luôn khen những công đức tối thắng
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Hoan Hỷ, ai chạm hào quang này thì được tỉnh giác, kính mộ Phật, phát nguyện tu chứng đạo Bồ-đề. Tại sao được hào quang như thế? Do đắp tượng Phật trang nghiêm ngự trên đài sen, luôn luôn tán thán những công đức thù thắng nên thành tựu quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Ái Nhạo
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến lòng họ mến kính chư Phật
Mến kính tôn Pháp, mến kính Tăng;
Nếu tâm thường kính mến chư Phật
Kính mến Pháp và kính mến Tăng
Thời ở trong chúng hội Như Lai
Thành được pháp nhẫn sâu vô thượng.
Khai ngộ chúng sanh số vô lượng
Khiến họ niệm Phật, Pháp, Tăng bảo
Và dạy phát tâm tu công đức
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Ái Nhạo, người nào chạm đến hào quang này thì mến kính Phật, Pháp, Tăng, ở trong chúng hội của Như Lai thành tựu pháp nhẫn vô thượng. Tại sao được hào quang như thế? Do khai ngộ chúng sanh, khiến họ niệm Phật, Pháp, Tăng bảo và dạy phát tâm tu công đức.
Lại phóng quang minh tên Phước Tụ
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến họ thật hành nhiều bố thí
Dùng đây nguyện cầu đạo vô thượng.
Lập hội đại bố thí vô hạn
Ai đến cầu xin đều thỏa mãn
Chẳng để lòng họ còn thấy thiếu
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Phước Tụ, ai chạm tới hào quang này thì phát tâm thực hành bố thí, nguyện cầu thành Phật. Do thiết lập hội bố thí không giới hạn, thỏa mãn tất cả cầu xin của chúng sanh nên thành tựu quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Cụ Trí
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến nơi một pháp, trong một niệm
Đều hiểu vô lượng các pháp môn.
Ví các chúng sanh phân biệt pháp
Nhẫn đến quyết liễu nghĩa chân thật
Khéo nói pháp nghĩa không thiếu bớt
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Cụ Trí, tức đầy đủ trí tuệ, ai chạm tới hào quang này thì giác ngộ trong một pháp một niệm, hiểu vô lượng pháp môn. Được hào quang này là do phân biệt thuyết pháp cho chúng sanh, quyết tu liễu nghĩa chân thật, nói pháp không thiếu sót.
Lại phóng quang minh tên Huệ Đăng
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến biết chúng sanh tánh không tịch
Tất cả các pháp vô sở hữu.
Diễn thuyết các pháp không, vô chủ
Như huyễn, như diệm, trăng dưới nước
Cũng như giấc mơ, cùng bóng tượng
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Huệ Đăng, ai chạm tới hào quang này đều biết được chúng sanh tánh không tịch, biết tất cả pháp vô sở hữu. Tại sao được hào quang này? Do diễn thuyết các pháp không, vô chủ, như huyễn như diệm, như trăng đáy nước, như giấc mơ, như bóng tượng.
Phóng quang minh tên Pháp Tự Tại
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến được vô tận đà-la-ni
Tổng trì tất cả các Phật pháp,
Cung kính cúng dường người trì pháp
Cung cấp hầu hạ chư thánh hiền
Đem chánh pháp thí cho chúng sanh
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Pháp Tự Tại, ai chạm tới hào quang này thì được vô tận đà-la-ni. Tại sao được hào quang này? Do cung kính cúng dường người trì pháp, cung cấp hầu hạ những vị thánh hiền, đem chánh pháp bố thí cho chúng sanh.
Lại phóng quang minh tên Năng Xả
Quang này giác ngộ kẻ xan tham
Đi Khiến biết tài vật là vô thường
Thường thích bố thí lòng không nhiễm.
Lòng keo kiết khó điều, được điều
Biết của như mộng, như mây nổi
Thêm lớn tâm bố thí thanh tịnh
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Năng Xả, ai chạm tới hào quang này thì biết tài vật là vô thường, phát tâm bố thí lòng không nhiễm. Do tu nhân gì được hào quang này? Do lòng không keo kiệt, không bỏn sẻn, biết của thế gian như mộng, như mây nổi, luôn luôn phát tâm bố thí thanh tịnh.
Lại phóng quang minh tên Trừ Nhiệt
Quang này giác ngộ kẻ phạm giới
Khiến họ thọ trì giới thanh tịnh
Phát tâm nguyện chứng đạo vô sư.
Khuyên dắt chúng sanh thọ trì giới
Mười nghiệp đạo lành đều thanh tịnh
Lại khiến phát hướng Bồ-đề tâm
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Trừ Nhiệt, ai chạm tới hào quang này thì dù phạm giới đều được trì giới thanh tịnh, phát tâm nguyện chứng đạo vô sư. Tại sao được hào quang này? Do khuyên người thọ trì giới và tu Thập thiện thanh tịnh, khiến họ phát tâm Bồ-đề.
Lại phóng quang minh tên Nhẫn Nghiêm
Quang này giác ngộ kẻ sân hận
Khiến họ lìa sân, trừ ngã mạn
Thường thích pháp nhu hòa nhẫn nhục.
Chúng sanh bạo ác khó nhẫn được
Vì Bồ-đề nên tâm chẳng động
Thường thích ca ngợi đức nhẫn nhục
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Nhẫn Nghiêm, tức là lấy nhẫn nhục làm trang nghiêm, ai hay sân giận chạm vào hào quang này thì được lìa sân và bớt tâm ngã mạn, lại thích tu pháp nhu hòa nhẫn nhục. Tại sao được hào quang này?
Do khi chúng ta tu gặp người có thói hung dữ mà mình nhẫn được, vì tâm Bồ-đề không thối chuyển, ca ngợi đức nhẫn nhục nên thành tựu quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Dũng Mãnh
Quang này giác ngộ kẻ giải đãi
Khiến họ thường đối với Tam bảo
Cung kính cúng dường không nhàm mỏi.
Nếu họ thường đối với Tam bảo
Cung kính cúng dường không nhàm mỏi
Thời hay vượt khỏi cảnh tứ mao
Mau thành bậc Bồ-đề vô thượng.
Khuyến hóa chúng sanh khiến tinh tấn
Thường siêng cúng dường ngôi Tam bảo
Lúc pháp sắp diệt chuyên ủng hộ
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Dũng Mãnh, ai chạm tới hào quang này thì người giải đãi trở nên siêng năng cúng dường Tam bảo không nhàm chán. Nếu cúng dường Tam bảo không nhàm chán thì vượt khỏi tứ ma, tức là ma phiền não, ma ngũ ấm, ma trời, ma chết, được chứng quả vô thượng Bồ-đề. Tại sao? Vì khéo giáo hóa chúng sanh, khiến họ tinh tấn tụng kinh ngồi thiền, cúng dường Tam bảo, khi pháp của Phật sắp diệt thì ủng hộ duy trì không cho suy yếu, do đó được quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Tịch Tịnh
Quang này giác ngộ kẻ loạn tâm
Khiến họ xa lìa tham, sân, si
Tâm chẳng dao động được chánh định,
Xa lìa tất cả ác trí thức
Luận đàm vô nghĩa, hạnh tạp nhiễm
Khen ngợi thiền định, hạnh tịch tịnh
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Tịch Tịnh, hay giác ngộ người loạn tâm. Ai tham sân si nhiều chạm tới hào quang này thì tâm bớt dao động, dần dần được chánh định. Tại sao được hào quang này? Do xa lìa ác tri thức, xa lìa luận đàm vô nghĩa, hạnh tạp nhiễm, luôn luôn khen ngợi thiền định, hạnh tịch tĩnh nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Huệ Nghiêm
Quang này giác ngộ kẻ ngu mê
Khiến họ chứng lý, hiểu duyên khởi
Lục căn, trí tuệ đều thông đạt,
Nếu hay chứng lý, hiểu duyên khởi
Lục căn, trí tuệ đều thông đạt
Thời được pháp tam-muội Nhật Đăng
Trí tuệ sáng tỏ thành Phật quả,
Của ngoài, trong thân đều hay xả
Vì đạo Bồ-đề cầu chánh pháp
Nghe xong, chuyên cần vì chúng nói
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Huệ Nghiêm, là lấy trí tuệ trang nghiêm. Người ngu si chạm tới hào quang này thì hiểu lý duyên khởi, được trí tuệ thông đạt. Khi trí tuệ thông đạt thời được phát tam-muội Nhật Đăng, trí tuệ sáng tỏ thành Phật quả. Do nhân gì mà được hào quang này? Do bố thí của cải trong và ngoài thân, vì đạo Bồ-đề cầu chánh pháp, nghe xong lại chuyên cần vì người khác nói, nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Phật Huệ
Quang này giác ngộ các hàm thức
Khiến thấy vô lượng vô biên Phật
Đều ngự trên bảo tọa liên hoa.
Khen Phật oai đức và giải thoát
Ngợi Phật tự tại vô hạn lượng
Hiển thị Phật lực và thần thông
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Phật Huệ, ai chạm tới hào quang này thì được giác ngộ, thấy được vô lượng vô biên đức Phật ngự trên tòa sen. Sở dĩ được hào quang này là do khen ngợi oai đức chư Phật, khen ngợi pháp giải thoát của Phật, khen ngợi Phật tự tại vô hạn lượng, hiển bày cho người biết sức thần thông diệu dụng của Phật.
Lại phóng quang minh tên Vô Úy
Quang này chiếu đến kẻ sợ hãi
Quỷ mị bắt giữ, những độc hại
Tất cả đều khiến mau trừ diệt,
Hay ban vô úy cho chúng sanh
Gặp kẻ não hại đều khuyên ngăn
Chẩn tế kẻ cô cùng ách nạn
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Vô Úy tức hào quang không sợ hãi. Người được hào quang này chiếu đến thì bao nhiêu sợ hãi đều tiêu trừ. Tại sao được hào quang này? Do ban cho chúng sanh sự vô úy, gặp những kẻ hung hăng muốn não hại người thì khuyên ngăn, gặp những kẻ cô bần ách nạn thì giúp đỡ cho họ qua tai nạn, nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên An Ổn
Quang này chiếu đến người tật bệnh
khiến trừ tất cả sự khổ đau
Đều được sự vui trong chánh định,
Ban cho thuốc hay cứu các bệnh
Diệu bảo sống lâu, hương thoa thân
Tô, dầu, sữa, mật làm thức ăn
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên An Ổn, người tật bệnh chạm tới thì tiêu trừ tất cả khổ đau, dần dần được chánh định. Tại sao được hào quang này? Do bố thí thuốc hay cứu các bệnh, diệu bảo sống lâu, hương thoa thân, cho tô dầu sữa mật làm thức ăn, nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Kiến Phật
Quang này giác ngộ người sắp chết
Khiến tùy nhớ tưởng, thấy Như Lai
Mạng chung được sanh cõi nước Phật,
Thấy kẻ lâm chung khuyên niệm Phật
Lại chỉ tượng Phật bảo nhìn ngắm
Khiến đối với Phật rất kính ngưỡng
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Kiến Phật, người sắp lâm chung chạm tới hào quang liền nhớ tưởng Như Lai, được sanh cõi Phật. Tại sao có hào quang này? Do thấy người sắp lâm chung, khuyên nhớ niệm danh hiệu Phật, nhớ tưởng công hạnh Phật, hoặc chỉ hình tượng Phật cho họ ngắm nhìn, khiến họ đối với Phật rất kính ngưỡng, nên được quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Nhạc Pháp
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến nơi chánh pháp luôn mến thích
Lóng nghe, diễn thuyết và biên chép,
Lúc pháp sắp diệt hay diễn thuyết
Khiến người cầu pháp ý thỏa mãn
Mến thích chánh pháp siêng tu tập
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Nhạc Pháp, người chạm tới hào quang này luôn luôn mến thích chánh pháp, ưa nghe kinh, biên chép kinh. Khi giáo pháp sắp diệt thì hay diễn thuyết, khiến người nghe được thỏa mãn, mến thích chánh pháp, siêng tu tập nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Diệu Âm
Quang này khai ngộ chư Bồ-tát
Hay khiến các tiếng trong ba cõi
Người đều nghe là tiếng của Phật,
Dùng âm thanh lớn ca ngợi Phật
Bố thí chuông, linh các âm nhạc
Khiến khắp thế gian nghe tiếng Phật
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Diệu Âm tức là hào quang tiếng nhiệm mầu. Hào quang này khai ngộ các Bồ-tát, tất cả âm thanh trong ba cõi đều nghe là tiếng của Phật. Tu hạnh gì mà được hào quang này? Do dùng âm thanh ca ngợi Phật. Vì vậy khi tụng kinh chúng ta phát âm cho trong trẻo rõ ràng. Bố thí chuông, linh, các thứ âm nhạc, khiến khắp thế gian nghe tiếng Phật nên được hào quang này.
Phóng quang minh tên Thí Cam Lộ
Quang này khai ngộ tất cả chúng
Khiến bỏ tất cả hạnh phóng dật
Tu hành đầy đủ các công đức,
Nói pháp hữu vi chẳng an ổn
Vô lượng khổ não đều đầy khắp
Hằng thích ca ngợi vui tịch diệt
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Thí Cam Lộ, ai chạm tới hào quang này đều được khai ngộ, dứt bỏ phóng dật và buông lung, tu hành đầy đủ các công đức. Tại sao được hào quang này? Do dạy người biết các pháp hữu vi sanh già bệnh chết không an ổn, có vô lượng khổ não, thường dạy người ưa thích pháp tịch diệt, nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Tối Thắng
Quang này khai ngộ tất cả chúng
Khiến ở chỗ Phật khắp lóng nghe
Giới, định, trí tuệ pháp tăng thượng,
Thường thích ca ngợi tất cả Phật
Thắng giới, thắng định, thắng trí tuệ
Đó là vì cầu đạo vô thượng
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Tối Thắng, ai chạm tới hào quang này thì liền khai ngộ, thích nghe pháp Phật, giới định tuệ tăng trưởng. Tại sao được hào quang này? Vì cầu đạo vô thượng nên thích ca ngợi pháp của Phật, ca ngợi thắng giới, thắng định, thắng trí tuệ, do đó được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Bảo Nghiêm
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến được bảo tạng vô cùng tận
Dùng đây cúng dường chư Như Lai,
Đem các loại bảo châu thượng diệu
Dâng lên chư Phật và tháp Phật
Cũng khiến ban cho kẻ nghèo thiếu
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Bảo Nghiêm, tức là hào quang của báu trang nghiêm. Ai chạm tới hào quang này thì được kho báu vô tận, dùng đây cúng dường chư Như Lai. Tại sao được hào quang này? Do đem của báu thượng diệu cúng dường chư Phật và tháp Phật, rồi lại bố thí cho kẻ nghèo thiếu nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Hương Nghiêm
Quang này giác ngộ tất cả chúng
Khiến người nghe pháp lòng vui đẹp
Quyết định sẽ thành công đức Phật,
Hương tốt quý giá dùng thoa đất
Cúng dường tất cả đấng Tối Tôn
Cũng dùng xây tháp và tượng Phật
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Hương Nghiêm tức là hào quang dùng mùi thơm để trang nghiêm. Người nào chạm hào quang này thì vui thích nghe pháp, quyết định thành tựu công đức Phật. Tu nhân gì được hào quang như vậy? Do dùng các thứ hương tốt quý giá rải trên đất, cúng dường tất cả đức Phật, cũng dùng xây tháp và tạo tượng Phật, nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh Tạp Trang Nghiêm
Bảo tràng, phan lọng số vô lượng
Thắp hương, rải hoa, tấu âm nhạc
Thành ấp trong ngoài đều khắp cả,
Đem những kỹ nhạc vi diệu ấy
Cùng những hương, hoa, phan, lọng đẹp
Các thứ trang nghiêm cúng dường Phật
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Tạp Trang Nghiêm, hay khiến người đem vô số lọng báu, thắp hương rải hoa, tấu âm nhạc để cúng dường Phật. Sở dĩ có hào quang này là do đem kỹ nhạc vi diệu cùng hương hoa phan lọng, các thứ trang nghiêm cúng dường Phật.
Lại phóng quang minh tên Nghiêm Khiết
Khiến mặt đại địa đều bằng phẳng
Trang nghiêm tháp Phật và chỗ ấy
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Nghiêm Khiết, tức hào quang sạch sẽ trang nghiêm, khiến cho mặt đất đều bằng phẳng. Do công phu trang nghiêm tháp của Phật và làm đẹp chung quanh nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Đại Vân
Hay khởi mây thơm hay nước thơm
Nước thơm rưới tháp và đình viện
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Đại Vân, thường khởi mây thơm rưới nước thơm khắp các đình viện. Sở dĩ được hào quang này là do rưới nước thơm khắp nơi trong chùa.
Lại phóng quang minh tên Nghiêm Cụ
Khiến người thiếu áo được thượng phục
Vật tốt nghiêm thân đem bố thí
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Nghiêm Cụ, tức hào quang y phục trang nghiêm, khiến người thiếu áo chạm tới hào quang này thì được áo tốt. Tại sao được hào quang này? Do thường bố thí vật tốt nghiêm thân.
Lại phóng quang minh tên Thượng Vị
Hay khiến kẻ đói được mỹ thực
Các thứ ăn ngon đem bố thí
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Thượng Vị, người đói gặp hào quang này thì được thức ăn ngon. Do khi tu thường bố thí thức ăn ngon nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Đại Tài
Khiến kẻ nghèo cùng được của báu
Đem vật vô tận cúng Tam bảo
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Đại Tài, tức của cải nhiều, người nghèo cùng chạm đến hào quang này thì được của báu. Tu nhân gì được hào quang này? Do đem tài vật nhiều vô tận cúng dường Tam bảo.
Lại phóng quang minh tên Nhãn Thanh Tịnh
Hay khiến kẻ mù được ngó thấy
Đem đèn cúng Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Nhãn Thanh Tịnh, người mù chạm vào hào quang này thì liền được sáng mắt. Do dùng đèn cúng dường Phật và tháp Phật nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Nhĩ Thanh Tịnh
Hay khiến kẻ điếc được nghe rõ
Trổi nhạc cúng Phật và tháp Phật
Do dây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Nhĩ Thanh Tịnh, người điếc chạm hào quang liền được nghe rõ. Do dùng âm nhạc cúng dường Phật và tháp Phật nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Tỹ Thanh Tịnh
Xưa chưa nghe hương, đều được nghe
Đem hương cúng Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Tỹ Thanh Tịnh, người chưa nghe mùi hương gặp hào quang này liền nghe được mùi hương. Do đem hương thơm cúng dường Phật và tháp Phật nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Thiệt Thanh Tịnh
Hay dùng tiếng tốt ca ngợi Phật
Trừ hẳn lời nói thô và ác
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Thiệt Thanh Tịnh, tức là lưỡi thanh tịnh. Sở dĩ được hào quang này là do dùng tiếng tốt ca ngợi Phật, dứt hẳn lời nói thô ác nên được quang minh này.
Lại phóng quang minh tên Thân Thanh Tịnh
Kẻ năm căn thiếu khiến hoàn cụ
Đem thân lễ Phật và tháp Phật
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Thân Thanh Tịnh, người các căn không đầy đủ chạm hào quang này thì được đầy đủ. Sở dĩ được hào quang này là do đem thân lễ Phật và tháp Phật.
Lại phóng quang minh tên Ý Thanh Tịnh
Khiến kẻ quên lãng được chánh niệm
Tu hành tam-muội đều tự tại
Do đây được thành quang minh này.
Đồng Có hào quang tên Ý Thanh Tịnh, người thất niệm chạm đến hào quang liền được chánh niệm. Sở dĩ được hào quang này là do công phu tu thiền định được tự tại.
Lại phóng quang minh tên Sắc Thanh Tịnh
Khiến thấy Phật sắc bất tư nghì
Đem những diệu sắc trang nghiêm tháp
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Sắc Thanh Tịnh, người chạm đến liền thấy sắc Phật bất tư nghì. Tại sao được hào quang đó? Do đem những diệu sắc trang nghiêm tháp Phật nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Thanh Thanh Tịnh
Khiến biết thanh tánh vốn không tịch
Quán thanh duyên khởi, như tiếng vang
Do đây được thành quang minh ấy.
Có hào quang tên Thanh Thanh Tịnh, khiến người chạm đến biết tánh âm thanh vốn rỗng lặng. Do tu quản lý duyên khởi của âm thanh, biết tiếng không thật như vang, như hưởng, hằng quán như vậy nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Hương Thanh Tịnh
Khiến vật hôi nhơ đều thơm sạch
Nước thơm rửa tháp, cây bồ đề
Do đây được thành quang minh ấy.
Có hào quang tên Hương Thanh Tịnh, khiến những gì nhơ nhớp chạm đến thảy đều thơm sạch. Do lấy nước thơm rưới tháp Phật và tưới cây bồ đề nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Vị Thanh Tịnh
Hay trừ tất cả độc trong vị
Hằng cúng Phật, Tăng cùng cha mẹ
Do đây được thành quang minh này.
Có hào quang tên Vị Thanh Tịnh, những chất độc trong vị thức ăn chạm tới quang minh này đều biến thành ngon, thành tốt. Do thường cúng Phật, chúng tăng và cha mẹ nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Xúc Thanh Tịnh
Hay khiến thô nhám đều dịu mềm
Đao, mâu, kiếm, kích trên rơi xuống
Đều khiến biến làm tràng hoa đẹp.
Bởi xưa từng ở giữa đường sá
Thoa hương, rải hoa, trải y phục
Rước đưa chư Phật đi trên đó
Vì thế nay được quang minh này.
Có hào quang tên Xúc Thanh Tịnh, những gì thô nhám chạm vào hào quang này đều trở thành mềm dịu. Đao, mâu, kiếm, kích trên hư không rơi xuống khiến biến thành tràng hoa đẹp. Do khi xưa Bồ-tát đem hương hoa và y phục trải trên đường để Phật đi lên đó nên được hào quang này.
Lại phóng quang minh tên Pháp Thanh Tịnh
Hay khiến tất cả những chân lông
Đều diễn diệu pháp bất tư nghì
Ai nghe pháp này đều vui hiểu
Nhân duyên sanh ra, vốn vô sanh
Pháp thân của Phật, chẳng phải thân
Pháp tánh thường trụ như hư không
Do thuyết nghĩa trên được quang ấy.
Có hào quang tên Pháp Thanh Tịnh, được hào quang này rồi thì tất cả lỗ chân lông đều thuyết diệu pháp khiến người nghe thích thú. Thuyết diệu pháp là thuyết pháp gì? Là nói các pháp do nhân duyên sanh, duyên sanh vốn vô sanh, nói pháp thân Phật không phải thân phàm phu, pháp tánh thường trụ rộng lớn như hư không. Do diễn thuyết những nghĩa trên nên được hào quang này.
Những môn quang minh như đã thuật
Hằng hà sa số vô hạn lượng
Đều từ chân lông Đại tiên phóng
Mỗi quang công dụng đều sai biệt.
Như một chân lông phóng quang minh
Vô lượng vô số như hằng sa
Tất cả chân lông đều như vậy
Đây là Đại tiên tam-muội lực.
Những hào quang nhiều như cát sông Hằng kể trên đều từ chân lông bậc Đại tiên tức là của Phật, Bồ-tát phóng ra. Một chân lông phóng ra vô số hào quang tất cả chân lông đều như vậy. Đây là sức tam-muội quang, của chư Phật, Bồ-tát thành tựu như thế.
Như bản hạnh xưa được quang minh
Tùy ai túc duyên đồng tu hành
Nay phóng quang minh nên như vậy
Đây là Đại tiên trí tự tại.
Như bản hạnh tức hạnh ngày xưa được hào quang đó, nghĩa là tùy người có duyên lành đồng tu hành với các ngài, liền được chạm tới hào quang đó. Đây là do trí tuệ tự tại của Phật
Thuở xưa đồng tu nơi phước nghiệp
Và người mến thích hay tùy hỷ
Thấy kia thật hành cũng vui theo
Nay nơi quang này đều được thấy.
Thuở xưa khi các ngài mới phát tâm tu, nếu có người cùng tu phước nghiệp và phát tâm mến thích tùy hỷ vui theo thì ngày nay các ngài thành Phật, thành Bồ-tát, phóng quang cho người đó gặp thấy.
Nếu ai tự tu các phước nghiệp
Cúng dường chư Phật vô lượng số
Nơi công đức Phật thường nguyện cầu
Được quang minh này làm giác ngộ.
Như kẻ sanh manh chẳng thấy trời
Chẳng phải mặt trời không mọc lên
Những người mắt tỏ đều thấy rõ
Riêng theo phận mình làm công việc.
Quang minh Bồ-tát cũng như vậy
Người có trí tuệ đều thấy cả
Phàm phu tà tín, kẻ mê si
Nơi quang minh này không thấy được.
Nếu người tự tu phước nghiệp, cúng dường vô số chư Phật, đối với công đức của Phật thường nguyện cầu. Đây là do hào quang Bồ-tát chạm đến khiến họ được giác ngộ. Những người không được duyên lành đó, giống như kẻ mù thuở nhỏ không thấy mặt trời.
Cũng vậy, người không có duyên với Bồ-tát, không tùy hỷ ủng hộ các ngài tu thì dù các ngài phóng quang cũng không thấy. Những người mắt tỏ đều thấy rõ, riêng theo phận mình làm công việc, người sáng mắt thấy ánh sáng của mặt trời, tính giờ khắc để làm công việc. Đó là dụ cho những người có duyên lành với Bồ-tát thấy hào quang chiếu đến rồi phát tâm. Quang minh Bồ-tát cũng như vậy, người có trí tuệ đều thấy cả, chỉ có những phàm phu tà tín, mê sĩ thì không thấy.
Ma-ni cung điện và xe kiệu
Báu đẹp hương thơm dùng thoa sáng
Người có phước đức tự nhiên đủ
Người không phước đức chẳng ở được.
Bồ-tát quang minh cũng như vậy
Người có trí sâu đều chiếu đến
Tà tín, hiểu kém, kẻ phàm ngu
Chẳng thể thấy được quang minh ấy.
Có những cung điện bằng ma-ni, đầy đủ báu đẹp hương thơm sáng rỡ, người có phước thì đương nhiên được ở trong đó, người không có phước chẳng ở được. Quang minh Bồ-tát cũng như vậy, người nào có trí sâu thì thấy hào quang của Bồ-tát chiếu đến, còn những người ta tín, hiểu kém, phàm ngu thì chẳng thấy được quang minh kia.
Nếu ai nghe quang này sai biệt
Hay sanh lòng tin sâu thanh tịnh
Dứt hẳn tất cả các lưới nghi
Mau thành tràng công đức vô thượng.
Người nghe quang minh của Bồ-tát có nhiều thứ sai biệt, sanh lòng tin sâu thanh tịnh thì được dứt hết các lưới nghi, mau thành tựu tràng công đức vô thượng.
Có thắng tam-muội hay xuất hiện
Quyến thuộc trang nghiêm đều tự tại
Tất cả mười phương các quốc độ
Phật tử chúng hội không sánh kịp.
Có diệu liên hoa, quang trang nghiêm
Lượng bằng tam thiên đại thiên giới
Thân ngài đoan tọa khắp liên hoa
Đây là tam-muội thần thông lực.
Đây nói sức chánh định thần thông của Bồ-tát. Khi Bồ-tát nhập chánh định thần thông này thì xuất hiện quyến thuộc trang nghiêm tự tại, chúng hội của cõi nước trong mười phương không sánh bằng. Từ chánh định này cũng xuất hiện hoa sen đẹp đẽ trang nghiêm lớn bằng cả Tam thiên Đại thiên thế giới, Bồ-tát ngồi trên hoa sen này.
Lại có mười cõi vị trần số
Liên hoa xinh đẹp bao vòng quanh
Chúng Phật tử ngồi trên hoa đó
Trụ nơi tam-muội oai thần lực.
Đời trước thành tựu nhân duyên lành
Tu hành đầy đủ Phật công đức
Những chúng sanh này quanh Bồ-tát
Cùng nhau chắp tay nhìn không chán.
Như mặt nguyệt giữa các tinh tú
Bồ-tát trong chúng cũng như thế
Công hạnh Bồ-tát pháp như vậy
Vào nơi tam-muội oai thần lực.
Như sự thị hiện ở một phương
Các chúng Phật tử cùng vây quanh
Trong tất cả phương đều như vậy
Trụ nơi tam-muội oai thần lực.
Trên nói thần lực của Bồ-tát hiện một hoa sen lớn, đây nói có nhiều hoa sen như số vi trần bao quanh hoa sen lớn. Chúng Phật tử ngồi trên đó đều là quyến thuộc trụ nơi thần lực tam-muội của Bồ-tát. Bồ-tát ngồi trên hoa sen lớn đẹp đẽ, chúng quyến thuộc ngồi trên hoa sen nhỏ vây quanh nhìn không chán. Bồ-tát khi thành tựu được công đức này thì tất cả chánh định đều hiện thần lực theo sở thích của mình. Thị hiện ở một phương có chúng Phật tử vây quanh, tất cả phương cũng thị hiện như vậy. Đây là do đời trước tu hành, những người có duyên với Bồ-tát được gặp nhau.
Có thắng tam-muội tên phương võng
Trụ đây Bồ-tát rộng khai thị
Trong tất cả phương khắp hiện thân
Hoặc hiện nhập định hoặc xuất định.
Hoặc ở phương Đông nhập chánh định
Rồi ở phương Tây mà xuất chánh định
Hoặc ở phương Tây nhập chánh định
Rồi ở phương Đông mà xuất định.
Hoặc ở phương khác nhập chánh định
Rồi ở phương khác mà xuất định,
Nhập xuất như vậy khắp mười phương
Đây gọi Bồ-tát tam-muội lực.
ông lùi Có chánh định tên Phương Võng, tức là chánh định như cái lưới trùm hết. Bồ-tát nhập định ở phương Đông xuất ở phương Tây, nhập ở phương Tây xuất ở phương Đông… Đây là sức chánh định của Bồ-tát nhập xuất qua lại mười phương tự tại.
Cùng tận phương Đông các quốc độ
Chư Phật Như Lai vô lượng số
Đều hiện trước Phật thân cận cả
Trụ nơi tam-muội tịch bất động.
Nhưng nơi phương Tây các thế giới
Chỗ của tất cả chư Phật ngự
Đều hiện từ nơi tam-muội xuất
Sắm sửa vô lượng đồ cúng dường.
Cùng tận phương Tây các quốc độ
Chư Phật Như Lai vô lượng số
Đều hiện trước Phật thân cận
Trụ nơi tam-muội tịch bất động.
Những nơi phương Đông các thế giới
Chỗ của tất cả chư Phật ngự
Đều hiện từ nơi tam-muội xuất
Sắm sửa vô lượng đồ cúng dường.
Như vậy mười phương các thế giới
Bồ-tát vào khắp không bỏ sót
Hoặc nhập tam-muội tịch bất động
Hoặc hiện cung kính cúng dường Phật.
Đoạn này nói Bồ-tát ở nơi một phương thế giới có Phật, hoặc nhập định hoặc hiện thân cúng dường Phật, thì nơi mười phương thế giới cũng có Bồ-tát nhập định hoặc hiện thân cúng dường Phật, không bỏ sót một thế giới nào.
Ở trong nhãn căn nhập chánh định
Nơi trong sắc trần từ định xuất
Thị hiện sắc tánh bất tư nghì
Tất cả trời người chẳng biết được.
Ở trong sắc trần nhập chánh định
Nơi nhãn xuất định, tâm chẳng loạn
Thuyết nhãn, vô sanh và vô khởi
Tánh không, tịch diệt và vô tác.
Đây nói Bồ-tát nhập định trong sáu căn sáu trần. Nhập trong con mắt thì xuất ở sắc trần, nhập trong sắc trần thì xuất ở con mắt… Thuyết nhãn, vô sanh và vô khởi; tánh không, tịch diệt và vô tác, ý nói sáu căn sáu trần tự tánh không tịch, tức là không có tự tánh, rỗng lặng. Nơi này không chướng ngại nơi kia, căn không chướng ngại trần, ngược lại trần cũng không chướng ngại căn.
Ở trong nhĩ căn nhập chánh định
Nơi trong thanh trần từ định xuất
Phân biệt tất cả tiếng ngữ ngôn
Chư thiên, thế nhân chẳng biết được.
Ở trong thanh trần nhập chánh định
Nơi nhĩ xuất định, tâm chẳng loạn
Thuyết nhĩ, vô sanh và vô khởi
Tánh không, tịch diệt và vô tác.
Ở trong tỹ định nhập chánh định
Nơi trong hương trần từ định xuất
Khắp được tất cả thượng diệu hương
Chư thiên, thế nhân chẳng biết được.
Ở trong hương trần nhập chánh định
Nơi tỹ, xuất định tâm chẳng loạn
Thuyết tỹ vô sanh và vô khởi
Tánh không, tịch diệt và vô tác.
Ở trong thiệt căn nhập chánh định
Nơi trong vị trần từ định xuất
Khắp được tất cả những thượng vị
Chư thiên, thế nhân chẳng biết được.
Ở trong vị trần nhập chánh định
Trong thiệt xuất định, tâm chẳng loạn
Nói thật vô sanh và vô khởi
Tánh không, tịch diệt và vô tác.
Ở trong thân căn nhập chánh định
Nơi trong xúc trần từ định xuất
Khéo hay phân biệt tất cả xúc
Chư thiên, thế nhân chẳng biết được.
Ở trong xúc trần nhập chánh định
Trong thân xuất định, tâm chẳng loạn
Thuyết thân vô sanh và vô khởi
Tánh không, tịch diệt và vô tác.
Ở trong ý căn nhập chánh định
Nơi trong pháp trần từ định xuất
Phân biệt tất cả các pháp tướng
Chư thiên, thế nhân chẳng biết được.
Ở trong pháp trần nhập chánh định
Nơi ý xuất định, tâm chẳng loạn
Thuyết ý vô sanh và vô khởi
Tánh không, tịch diệt và vô tác.
Đối với sáu căn và sáu trần, Bồ-tát tự tại không chướng ngại, không dính mắc. Tâm Bồ-tát giác ngộ, biết tất cả pháp không có tự tánh, không có thật thể, tự thể của chúng rỗng rang lặng lẽ. Biết rõ như vậy nên Bồ-tát nhập định xuất định tự tại, căn trần không ngại nhau, tùy nhập nơi này xuất nơi kia.
Trong thân đồng tử nhập chánh định
Trong thân tráng niên từ định xuất
Trong thân tráng niên nhập chánh định
Trong thân lão niên từ định xuất.
Trong thân lão niên nhập chánh định
Trong thân thiện nữ từ định xuất,
Trong thân thiện nữ nhập chánh định
Trong thân thiện nam từ định xuất.
Trong thân thiện nam nhập chánh định
Thân Tỳ-kheo-ni từ định xuất
Thân Tỳ-kheo-ni nhập chánh định
Trong thân Tỳ-kheo từ định xuất.
Trong thân Tỳ-kheo nhập chánh định
Thân học vô học từ định xuất,
Thân học vô học nhập chánh định
Thân Bích-chi Phật từ định xuất.
Thân Bích-chi Phật nhập chánh định
Hiện thân Như Lai từ định xuất,
Nơi thân Như Lai nhập chánh định
Trong thân chư thiên từ định xuất.
Trong thân chư thiên nhập chánh định
Trong thân đại long từ định xuất,
Trong thân đại long nhập chánh định
Trong thân dạ-xoa từ định xuất.
Trong thân dạ-xoa nhập chánh định
Trong thân quỷ thần từ định xuất,
Trong thân quỷ thần nhập chánh định
Trong một chân lông từ định xuất.
Đây nói về sức tự tại giữa thân này và thân khác. Sáu căn sáu trần là tướng duyên hợp không có tự thể, rỗng lặng. Bởi rỗng lặng nên không chướng ngại nhau. Thân mình thân người, thân nam thân nữ, thân trẻ con thân người lớn… tất cả đều duyên hợp nên không chướng ngại. Bồ-tát quán sát thân bằng con mắt trí tuệ, thấy tất cả thân tướng đều do tứ đại hợp thành. Tứ đại này không chướng với tứ đại khác, nước không chướng với nước… Vì thế nơi thân này nhập chánh định, nơi thân khác xuất định không chướng ngại.
Trong một chân lông nhập chánh định
Tất cả chân lông từ định xuất,
Tất cả chân lông nhập chánh định
Trên đầu một lông từ định xuất.
Trên đầu một lông nhập chánh định
Trong một vị trần từ định xuất,
Trong một vi trần nhập chánh định
Tất cả vi trần từ định xuất.
Trong tất cả trần nhập chánh định
Trong đất kim cang từ định xuất,
Trong đất kim cang nhập chánh định
Trên cây ma-ni từ định xuất.
Trên cây ma-ni nhập chánh định
Trong quang minh Phật từ định xuất,
Trong quang minh Phật nhập chánh định
Ở trong sông biển từ định xuất.
Trên là nói thân nhập xuất tự tại, đây là nói nhập định trong một lỗ chân lông, xuất định từ nhiều lỗ chân lông, hoặc trong một vi trần nhập định, thì xuất định trong tất cả vi trần… Những vật nhỏ tí ti như đầu sợi lông, một hạt bụi có phải là duyên hợp không? Đã là duyên hợp thì dù nhỏ như vi trần hay lớn như đại địa đều không có thật thể, là tánh không rỗng lặng nên chúng không chướng ngại nhau.
Ở trong sông biển nhập chánh định
Ở trong lửa lớn từ định xuất,
Ở trong lửa lớn nhập chánh định
Nơi gió xuất định tâm chẳng loạn.
trong phong đại nhập chánh định
Ở trong địa đại từ định xuất,
Ở trong địa đại nhập chánh định
Nơi Thiên cung điện từ định xuất.
Nơi Thiên cung điện nhập chánh định
Hư không xuất định tâm chẳng loạn,
Đây gọi bậc vô lượng công đức
Tam-muội tự tại khó nghĩ bàn.
Mười phương tất cả chư Như Lai
Trong vô lượng kiếp nói chẳng hết.
Đây nói về nhập xuất tự tại trong chỗ to lớn như sông biển lửa gió, đại địa hư không… Tứ đại nhỏ như hạt bụi không chướng ngại, lớn như quả đất cũng không chướng ngại nhau, vì lớn nhỏ đều là tướng duyên hợp, không có thật thể. Dù nhập xuất vào ra tất cả nơi mà tâm không tán loạn. Sức tam-muội tự tại không thể nghĩ bàn, mười phương chư Phật không thể nói hết.
Tất cả Như Lai đều cùng nói
Chúng sanh nghiệp báo khó nghĩ bàn.
Chư long biến hóa, Phật tự tại
Bồ-tát thần lực cũng khó nghĩ.
Muốn dùng ví dụ để hiển bày
Trọn không có dụ để dụ được
Nhưng những người trí tuệ thông đạt
Nhân thí dụ để hiểu nghĩa đó.
Hàng Thanh văn trụ bát giải thoát
Những sự biến hiện đều tự tại
Có thể một thân hiện nhiều thân
Lại hợp nhiều thân thành một thân.
Ở giữa không gian nhập hỏa định
Đi, đứng, nằm, ngồi giữa hư không
Trên thân phun nước dưới tuôn lửa
Trên thân tuôn lửa dưới tuôn nước.
Như thế đều nơi trong một niệm
Các môn tự tại vô lượng biên
Thanh văn chẳng đủ đại từ bi
Chẳng vì chúng sanh cầu Phật đạo.
Còn hiện được thần thông vô lượng
Huống là Phật Bồ-tát đại lực!
Hàng Thanh văn khi chứng được lục thông, các ngài dùng thần túc thông biến hóa ở trên hư không, nhập hỏa định đi đứng nằm ngồi giữa hư không, hoặc trên thân phun nước, dưới thân phun lửa… tất cả việc bất khả tư nghì đều hiện ra được. Hàng Thanh văn tu hành mới phát nguyện tu giải thoát bản thân và chúng sanh trong giới hạn nào đó thôi, chưa đầy đủ lòng đại bi, chưa cầu thành Phật mà còn được thần thông như vậy, huống nữa hàng Bồ-tát từ khi phát tâm tu cầu chứng đạo độ sanh cho đến khi thành Phật, công đức rất nhiều, vì có thần lực vô biên như vậy.
Như mặt nhật, nguyệt trên hư không
Bóng tượng cùng khắp cả mười phương
Trong nước ao hồ, đầm, chậu, chén
Sông ngòi, biển lớn đều hiện cả.
Bồ-tát sắc tượng cũng như vậy
Hiện khắp mười phương bất tư nghì;
Đều do tam-muội sức tự tại
Chỉ có Như Lai là chứng biết.
Bồ-tát hiện thân khắp mười phương như mặt trời mặt trăng ở giữa hư không là một, dưới nhân gian bao nhiêu sông rạch, ao hồ, chậu chén chứa nước… đều có bóng mặt trời, mặt trăng hiện trong đó. Mặt trời, mặt trăng là những vật thường mà có khả năng hiện khắp hết, huống nữa là Bồ-tát sức tam-muội bất tư nghì.
Như trong nước trong, bóng vũ khí
Các loại sai khác không xen tạp
Kiếm kích, cung tên, loại rất nhiều
Mão giáp xe cộ chẳng phải một.
Tùy kia bao nhiêu tướng sai khác
Nước trong hiện rõ tất cả bóng
Nhưng nước vốn tự không phân
Bồ-tát tam-muội cũng như vậy.
Như có một hồ nước trong veo, bên trên để các thứ binh khí cung tên, giáo mác… bóng những thứ đó có rọi xuống hồ không? Nhìn xuống nước chúng ta thấy đủ các bóng rõ ràng. Vì nước hồ trong, yên lặng, nên mọi hình bóng đều hiện đủ, Bồ-tát cũng vậy, trong chánh định tâm yên lặng nên hiện đủ các thứ mà không phân biệt.
Trong biển có thần tên Thiện Âm
Tiếng thần, thuận hết loài trong biển
Bao nhiêu ngôn ngữ đều hiện rõ
Khiến tất cả chúng đều vui đẹp.
Hải thần có đủ tham, sân, si
Mà còn khéo hiểu tất cả tiếng
Huống là tổng trì tự tại lực
Mà chẳng khiến được chúng vui mừng!
Ở đây dẫn tích trong biển có một vị thần tên Thiện Âm, thông suốt tất cả thứ tiếng của các loài trong biển. Một vị thần đủ tham, sân, si mà còn biết được tất cả thứ tiếng, huống nữa là vị Bồ-tát tâm thanh tịnh, tu hành đến chỗ viên mãn công đức, được tổng trì tự tại, lại không khiến tất cả chúng vui mừng sao?
Có một phụ nữ tên Biện Tài
Cha mẹ cầu trời mà sanh nàng
Có ai lìa ác, thích chân thật
Vào trong thân nàng sanh diệu biện.
Nàng ấy có tham dục, sân, si
Còn cho người theo có biện tài,
Huống là Bồ-tát đủ trí tuệ
Mà chẳng cho chúng được lợi ích?
Có người phụ nữ tên Biện Tài do cha mẹ cầu trời mà sanh, ai gần với bà liền được biện tài. Một người còn đủ tham, sân, si mà còn có khả năng làm cho mọi người được biệt tài, huống nữa là Bồ-tát đầy đủ trí tuệ, ai gần Bồ-tát mà không được lợi ích?
Như nhà ảo thuật biết ảo pháp
Hiện được nhiều loại cùng nhiều vật
Giây lát hiện làm ngày tháng năm
Thành ấp giàu có rất an vui.
Thuật gia có đủ tham sân si
Còn biến hóa dược vui thế gian
Huống là thiền định, sức giải thoát
Mà chẳng khiến được chúng vui mừng
Nhà ảo thuật đại tài hiện đủ các thứ, hoặc hiện ra hình ảnh thành quách, chợ búa, hoạt động từ năm này sang năm khác. Nhà ảo thuật đủ tham, sân, si mà còn làm cho thế gian những chuyện lạ vui, huống nữa Bồ-tát ở trong thiền định giải thoát mà không làm cho chúng sanh được mãn nguyện sao?
Lúc trời cùng Tu-la chiến đấu
Tu-la thua trận đồng chạy trốn
Vũ khí, xe cộ và quân lữ
Đồng thời trốn mất không kiếm được.
Tu-la có đủ tham sân si
Còn hay biến hóa bất tư nghì
Huống bậc thần thông vô úy lực
Biến hiện tự tại đâu lường được.
Đây kể chuyện a-tu-la cùng trời chiến đấu, binh khí xe cộ đầy đủ, nhưng khi a-tu-la thua trận chạy trốn biến mất hết, không ai thấy nữa. A-tu-la có đủ tham sân si còn biến hóa như vậy, huống nữa là bậc thần thông vô ủy lực thì chuyện biến hiện làm sao lường nổi?
Thích đề hoàn nhân có tượng vương
Lúc nó biết Thiên đế muốn đi
Tự hóa đủ ba mươi hai đầu
Mỗi đầu đều đủ sáu ngà trắng.
Trên mỗi ngà đều có bảy ao
Mỗi ao đầy nước thơm, trong sạch
Trong mỗi ao nước thơm trong ấy
Có bảy hoa sen rất xinh đẹp.
Trên mỗi hoa sen xinh đẹp ấy
Đều có bảy ngọc nữ cõi trời
Giỏi nghề đờn ca trổi âm nhạc
Cùng với Thiên đế đồng vui chơi.
Voi ấy hoặc lại bỏ bản hình
Tự hóa thân nó như chư thiên
Oai nghi đi đứng như trời thật
Nó có sức thần biến như vậy.
Tượng vương có đủ tham sân si
Còn hiện thần thông được như vậy
Huống bậc đầy đủ trí phương tiện
Mà nơi tam-muội chẳng tự tại.
Có con voi của trời Đế-thích, khi Đế-thích muốn dạo chơi nó liền tự hóa ba mươi hai đầu. Mỗi đầu có sáu ngà trắng, mỗi ngà trắng có bảy ao nước, mỗi ao nước có hoa thơm trong sạch, trong mỗi ao nước có bảy hoa sen xinh đẹp. Trên mỗi hoa sen có bảy ngọc nữ giỏi đàn ca, trổi nhạc cho Đế thích vui chơi. Hoặc voi đó tự biến thành chư thiên, oai nghi đầy đủ. Voi là súc sanh mà còn biến hóa như vậy, huống nữa Bồ-tát đầy đủ trí phương tiện mà không được sức tam-muội tự tại sao?
Như a-tu-la biến thân hình
Chân đạp đáy biển kim cang tế
Nước biển tột sâu ngập nửa thân
Đầu cao ngang đỉnh núi Tu-di
Tu-la có đủ tham sân si mê
Còn hiện được thần thông to lớn
Huống bậc phục ma Chiếu Thế Đăng
Mà không tự tại oai thần lực!
Thần a-tu-la có khả năng biến thân hình to lớn, chân đứng dưới đáy biển mà nước chỉ ngập đến nửa thân, đầu thì ngang núi Tu-di. A-tu-la có tham sân si mà còn biến hóa được như vậy, huống là bậc hàng ma Chiếu Thế Đăng, là bậc Bồ-tát như ngọn đèn soi sáng thế gian mà không có oai thần sao?
Trời cùng tu-la lúc đánh nhau
Thiên đế thần lực bất tư nghì
Tùy theo số chúng của tu-la
Hiện thân bằng số để cùng đấu.
Các a-tu-la tự nghĩ rằng:
Thích-đề-hoàn nhân đến đánh ta
Tất sẽ bắt ta trói tay chân
Do đây chúng nó đều lo lắng.
Đế thích hiện thân có ngàn mắt
Tay cầm kim cang tuôn lửa ngọn
Mặc giáp cầm gậy rất oai nghiêm
Tu-la trông thấy đều sợ chạy.
Thiên đế chỉ do chút phước đức
Còn dẹp phá được oán địch lớn
Huống bậc đại bi cứu tất cả
Đủ công đức lại chẳng tự tại!
Trời Đế-thích đánh với a–tu-la, a-tu-la có bao nhiêu binh tướng thì trời Đế-thích hiện ra bấy nhiêu, rồi hiện tay cầm gậy kim cang tuôn lửa khiến a-tu-la hoảng sợ bỏ chạy. Đế-thích chỉ có chút phước đức mà còn được như vậy, huống nữa là bậc đầy đủ công đức như Bồ-tát không được tự tại sao!
Trong trời Đao-lợi có thiên cổ
Từ nghiệp báo trời mà cảm ra
Lúc biết chư thiên hạm phóng dật
Trên không tự nhiên vang tiếng này:
“Tất cả ngũ dục đều vô thường
Như bọt nước kia, tánh hư giả
Các cõi như mơ, như ánh nắng
Như trăng trong nước như mây nổi,
Phóng dật là oán, là khổ não
Là đường sanh tử, chẳng mát mẻ
Nếu ai ham say việc phóng dật
Lọt vào miệng cá lớn sanh tử.
Những cội gốc khổ của thế gian
Tất cả thánh nhân đều nhàm sợ,
Ngũ dục hoại diệt các công đức
Các ngài phải thích pháp chân thật.”
Tam thập tam thiên nghe tiếng trống
Cùng dắt nhau lên Thiện Pháp đường,
Thiên đế vì họ giảng diệu pháp
Đều khiến thuận đạo, trừ tham ái.
Tiếng trống vô hình không thấy được
Còn hay lợi ích chúng chư thiên
Huống bậc Đại Từ hiện sắc thân
Mà chẳng tế độ loài hàm thức!
Cõi trời Đao-lợi có cái trống, khi chư thiên phóng dật thì tự nhiên vang ra tiếng nhắc nhở: “Tất cả ngũ dục đều vô thường, đều như bọt nước không bền chắc, như giấc mơ, ánh nắng, trăng trong nước, mây nổi… Buông lung phóng dật là khổ não, là đường sanh tử không mát mẻ.” Tiếng trống vô hình mà còn làm lợi ích cho chư thiên như vậy, huống nữa là bậc đại từ hiện sắc thân như Bồ-tát không tế độ được chúng sanh sao!
Trời cùng tu-la lúc đánh nhau
Chư thiên phước đức thù thắng lực
Thiên cổ vang tiếng bảo chư thiên
“Các ngài chẳng nên có kinh sợ”
Chư thiên được nghe tiếng trống này
Đều hết lo sợ thêm thế lực
Lúc đó tu-la lòng sợ khiếp
Bao nhiêu binh tướng kéo chạy lui.
Cam lộ diệu định như thiên cổ
Hằng vang tiếng hàng ma, tịch tịnh
Đại bi xót thương cứu tất cả
Khiến khắp chúng sanh dứt não phiền.
Khi chư thiên đánh nhau với a-tu-la thì cái trống trời liền phát ra tiếng khuyến khích các ngài đừng có sợ, chư thiên nghe tiếng hăng hái đánh a-tu-la chạy lui. Tiếng trống có khả năng thúc giục chư thiên mạnh mẽ, chư Phật, Bồ-tát mà không dứt được phiền não cho chúng sanh sao?
Thiên đế ứng khắp các thiên nữ
Chín mươi hai na-do-tha thân
Khiến chư thiên nữ đều tự bảo
Thiên vương chỉ cùng ta riêng vui.
Như khắp ứng với chư thiên nữ
Trong Thiện Pháp đường cũng như vậy
Hay trong một niệm hiện thần thông
Đều đến trước mặt mà thuyết pháp.
Thiên đế có đủ tham sân si
Hay khiến quyến thuộc đều hoan hỷ
Huống bậc phương tiện đại thần thông
Mà chẳng khiến được chúng vui đẹp!
Trời Đế-thích có rất đông thiên nữ, khi muốn vui chơi với thiên nữ thì biến vô số thân, bao nhiêu thiên nữ thì có bấy nhiêu thân ngài. Trong Thiện Pháp đường có bao nhiêu chư thiên, Đế-thích cũng ứng hiện bấy nhiêu thân đến trước mặt thuyết pháp. Trời Đế thích có đủ tham, sân, si mà còn biến hóa cho mọi người vui thích, huống nữa là chư Phật, Bồ-tát có đại phương tiện, đại thần thông không làm cho chúng sanh vui đẹp sao?
Tha Hóa Tự Tại đại Thiên vương
Ở trong cõi Dục được tự tại
Dùng hoặc nghiệp khổ làm rọ lưới
Cột trói tất cả hạng phàm phu.
Thiên vương kia có tham sân si
Với chúng sanh còn được tự tại
Huống bậc đủ cả mười trí lực
Mà chẳng khiến được chúng đồng hành!
Trời Tha Hóa Tự Tại đối chúng sanh ở cõi Dục giới, có đủ phương tiện làm cho chúng sanh vui say, tạo những nghiệp sai lầm. Trời Tự Tại có tham sân si mà còn tự tại với chúng sanh, huống nữa Bồ-tát đầy đủ mười trí lực không làm cho những người đồng hành được lợi ích sao?
Tam thiên thế giới Đại Phạm vương
Tất cả chỗ ở của Phạm thiên
Đều hay hiện thân ngồi ở trước
Diễn thông tiếng phạm âm vi diệu.
Đại Phạm vương kia ở thế gian
Thiền định, thần thông còn như ý
Huống đấng xuất thế gian vô thượng
Mà thiền giải thoát chẳng tự tại.
Trời Đại Phạm ở tại chỗ của mình mà hay hiện thân trước chúng Phạm thiên diễn nói pháp vi diệu.
Những người tu thiền, được quả từ Sơ thiền đến Tứ thiền hay tu quán từ bi hỷ xả thành tựu thì được sanh về cõi Phạm thiên. Những người tu về thế gian thiền mà còn được tự tại như vậy, huống nữa là Bồ-tát tu xuất thế gian thiền vô thượng mà chẳng được giải thoát tự tại sao?
Ma-hê-thủ-la trí tự tại
Đại hải long vương lúc làm mưa
Có thể phân biệt đếm từng giọt
Ở trong một niệm biết rõ ràng.
Bậc vô lượng kiếp siêng tu học
Được trí giác Bồ-đề vô thượng
Há lại chẳng được trong một niệm
Biết khắp tất cả tâm chúng sanh.
Trời Ma-hê-thủ-la được trí tự tại rộng lớn, trong một trận mưa có thể đếm được từng giọt, huống nữa Bồ-tát là bậc trí giác Bồ-đề vô thượng mà không biết tất cả tâm chúng sanh sao?
Chúng sanh nghiệp báo bất tư nghì
Dùng sức đại phong, khởi thế gian
Biển rộng, núi to, Thiên cung điện
Các báu, quang minh, muôn vật loại.
Cũng hay nổi mây cùng mưa lớn
Cũng hay làm tan những vẫn khí
Cũng hay thành thục loài ngũ cốc
Cũng hay an lạc các chúng sanh.
Đại phong chẳng học ba-la-mật
Cũng chẳng học Phật các công đức
Còn làm thành việc bất tư nghì
Huống bậc đầy đủ những hạnh nguyện.
Do nghiệp bất tư nghì của chúng sanh khiến một trận gió lớn thổi lên thành thế gian, thành biển núi, cung điện, ánh sáng, đủ tất cả vật. trận gió lớn đó không học sáu pháp ba-la-mật, cũng không học các công đức của Phật, mà còn biến hóa đủ vật cho tất cả chúng sanh, huống nữa những người học Phật có đầy đủ công đức, mà không làm cho hạnh nguyện của mình được tự tại sao?
Nam tử nữ nhân các thứ tiếng
Âm thanh của tất cả chim muông
Tiếng biển gào, sông chảy, sấm nổ
Đều hay vừa đẹp ý chúng sanh.
Huống bậc biết tiếng, tánh như vang
Đến được biện tài diệu vô ngại
Ứng khắp chúng sanh mà thuyết pháp
Mà chẳng khiến được chúng sanh mừng!
Đây nói tiếng người nam, người nữ, tiếng chim hót, sóng biển gào… những âm thanh đó còn làm đẹp ý chúng sanh, huống nữa người tu biết mọi thứ âm vang đều không thật, được biện tài vô ngại mà không khiến chúng sanh vui mừng sao?
Biển có pháp hy kỳ đặc biệt
Bình đẳng ấn tượng tất cả cảnh
Bảo vật thế gian và muôn dòng
Dung nạp tất cả không chống đối.
Vô tận thiền định, bậc giải thoát
Là bình đẳng ấn cũng như vậy
Phước đức, trí tuệ các diệu hạnh
Khắp tu tất cả không nhàm đủ.
Biển có tính kỳ đặc hy hữu là ấn bình đẳng, tất cả cảnh tượng thế gian đều in hình ảnh xuống biển, bao nhiêu vật báu, bao nhiêu dòng nước đều dồn đổ về chứa trong biển. Biển không biết tu mà còn được như vậy, huống nữa những bậc tu hành thiền định, giải thoát vô tận mà không có ấn bình đẳng và các diệu hạnh phước đức trí tuệ, khiến chúng sanh tu tất cả không nhàm đủ sao?
Đại hải Long vương lúc du hý
Nơi nơi chốn chốn được tự tại
Nổi mây trùm khắp cả bốn châu
Mây đó đủ những màu trang nghiêm.
Đệ lục Tha Hóa Tự Tại thiên
Nơi đó màu mây như chân kim,
Mây trời Hóa Lạc màu xích châu,
Mây trời Đâu-suất màu sương tuyết.
Mây trời Dạ ma màu lưu ly,
Mây trời Đạo-lợi màu mã não,
Trời Tứ Thiên vương màu pha lê,
Trên mặt Đại Hải màu kim cang.
Cõi Khẩn-na-la màu diệu hương,
Chỗ ở chư Long màu liên hoa,
Chỗ ở Dạ-xoa màu bạch nga,
Trong A-tu-la màu sơn thạch.
Châu Uất-đơn-việt màu vàng lửa,
Trong Diêm-phù-đề màu thanh bảo,
Hai châu kia màu tạp trang nghiêm,
Tùy chúng sở thích mà ứng đó.
Và lại Tha Hóa Tự Tại thiên
Trong mây chớp sáng như nhật quang,
Trên trời Hóa Lạc như nguyệt quang,
Trên Đâu-suất thiên vàng diêm-phù.
Trên Dạ-ma thiên màu kha tuyết,
Trời Đao-lợi sáng màu lửa vàng,
Trên Tứ Thiên vương màu các báu,
Trong Đại Hải kia màu xích châu.
Chỗ Khẩn-na-la màu lưu ly,
Chỗ Long vương ở màu bảo tạng,
Chỗ Dạ-xoa ở màu pha lê,
Trong A-tu-la màu mã não.
Châu Uất-đơn-việt màu hỏa châu,
Trong Diêm-phù-đề màu đế thanh,
Nơi hai châu kia tạp trang nghiêm
Như màu của mây chớp cũng vậy.
Tha Hóa sấm nổ như phạm âm,
Hóa Lạc thiên như tiếng đại cổ,
Đâu-suất thiên như tiếng xướng ca,
Dạ-ma thiên như tiếng thiên nữ.
Nơi trên trời Tam Thập Tam kia
Như âm thanh của khẩn-na-la,
Nơi cõi Tứ Thiên vương hộ thế
Như tiếng của thần càn-thát bà.
Trong biển như tiếng hai núi chạm,
Trong Khẩn-na-la tiếng tiêu địch,
Trong thành Long vương tiếng tần già,
Dạ-xoa ở tiếng long nữ.
Nơi A-tu-la tiếng trống trời,
Ở trong nhân loại tiếng hải triều
Tha Hóa Tự Tại mưa diệu hương
tạp hoa dùng trang nghiêm.
Hóa Lạc thiên mưa hoa đa-la
Mạn-đà-la hoa và rưới hương,
Trên Đâu-suất thiên mưa ma-ni,
Đầy đủ các thứ bảo trang nghiêm.
Bảo châu trong tóc như nguyệt quang
Y phục thượng diệu màu chân kim,
Trời Dạ-ma mưa tràng phan lọng
Tràng hoa, hương thoa đồ nghiêm sức.
Y thượng diệu màu xích chân châu
Và cùng các thứ kỹ nhạc tốt,
Đao-lợi thiên mưa châu như ý
Hương kiên hắc trầm thủy, chiên đàn.
Uất-kim, kê-la, đa-ma thảy
Hoa đẹp nước thơm xen nhau rưới,
Trong thành Trí Vương mưa thức ngon
Đủ sắc, hương, vị thêm sức khỏe.
Cũng mưa vô lượng các diệu bảo
Tất cả đều do long vương làm
Và lại nơi trong đại hải kia
Mưa tuôn chẳng dứt như trục xe.
Lại mưa vô tận tạng đại bảo
Cũng mưa các thứ đồ trang nghiêm
Xứ Khẩn-na-la mưa anh lạc
Y phục màu liên hoa và bảo.
Hương mạt-lợi và bà-sư-ca
Các thứ âm nhạc đều đầy đủ,
Trong thành chư long mưa xích châu,
Thành Dạ-xoa mưa ma-ni quang.
Trong A-tu-la mưa dao gậy
Dẹp trừ tất cả những oán địch,
Châu Uất-đơn-việt mưa anh lạc
Cũng mưa vô lượng hoa thượng diệu.
Phất-bà, Cù-da hai châu kia
Đều mưa các món đồ trang nghiêm,
Diêm-phù-đề mưa nước trong sạch
Thấm nhuần mọi nơi thường phải thời.
Nuôi lớn cây hoa quả và thuốc
Thành thục tất cả những lúa mạ
Như vậy vô lượng diệu trang nghiêm
Các thứ mây chớp và sấm mưa.
Long vương tự tại đều làm được
Mà thân chẳng động, chẳng phân biệt
Long vương ở trong biển thế gian
Còn hay hiện được sức nan tư.
Huống bậc vào biển pháp công đức
Mà chẳng hiện được đại thần biến.
Long vương ở thế gian còn hiện được những thần biến như thế, huống là chư Phật, Bồ-tát đã nhập được biển công đức, lại không có những thần biến bất tư nghì!
Môn giải thoát của chư Bồ-tát
Tất cả ví dụ không lệ được
Nay tôi tạm dùng các ví dụ
Lược nói Bồ-tát tự tại lực.
Trí tuệ đệ nhất, tuệ quảng đại,
Trí tuệ chân thật, tuệ vô biên,
Thắng tuệ và cùng tuệ thù thắng,
Pháp môn như vậy nay đã nói.
Pháp này hy hữu rất kỳ đặc
Nếu người nghe xong lãnh thọ được
Hay tin, hay thọ, hay khen nói
Việc làm như vậy rất là khó.
Tất cả phàm phu ở thế gian
Người tin pháp này rất là khó
Nếu ai siêng tu phước thanh tịnh
Do nhân lành xưa mới tin được.
Thần lực, trí tuệ lực của chư Phật, Bồ-tát rất kỳ đặc rất hy hữu, không thể thí dụ hết được, chỉ dùng những thí dụ nhỏ cho chúng ta tạm hiểu. Nếu nghe được mà hiểu, đó là do công đức tu hành nhiều đời. Hàng phàm phu nghe các pháp này rất khó tin hiểu.
Quần sanh trong tất cả thế giới
Ít ai muốn cầu Thanh văn thừa
Người cầu Độc giác lại càng ít
Người hướng Đại thừa rất khó gặp.
Người hướng Đại thừa còn là dễ
Tin được pháp này lại khó hơn
Huống lại trì tụng vì người nói
Đúng pháp tu hành hiểu chân thật.
Hoặc người đem Đại thiên thế giới
Đầu đội một kiếp thân chẳng động
Việc người này làm chưa là khó
Người tin pháp này mới là khó,
Hoặc người tay bưng mười quốc độ
Đứng giữa không gian trọn mười kiếp
Việc người này làm chưa là khó
Tin được pháp này mới là khó.
Nơi mười cõi vị trần số chúng
Cho vật sở thích trọn một kiếp
Phước đức người này chưa là thắng
Người tin pháp này mới tối thắng.
Nơi mười cõi vị trần số Phật
Đều kính cúng thờ trọn một kiếp
Nếu tụng trì được phẩm kinh này
Phước này tối thắng hơn người trước.
Lúc Hiền Thủ Bồ-tát nói kệ này rồi, thập phương thế giới chấn động sáu cách, cung ma ẩn khuất, ác đạo thôi dứt. Thập phương chư Phật đều hiện ra trước đồng đưa tay hữu xoa đảnh ngài và đồng tiếng khen: “Lành thay! Ông khéo nói pháp này. Chúng ta tất cả đều tùy hỷ.”
Kết thúc phẩm này, Bồ-tát Hiền Thủ khen ngợi công đức người tin và trì tụng pháp này, tiến tu đến thành Phật quả. Từ khi phát tâm tu cho đến thành Phật công đức thế nào? Do sức tự tại của chư Phật, Bồ-tát không thể nghĩ bàn, khi diễn tả chúng ta nghe tin được thì công đức không thể bì nổi. Tại sao? Bởi vì dù chúng ta cúng dường vô số chư Phật, đó chỉ là phước hữu vi, còn phát tâm tu đến thành Phật là công đức vô vi.